Pháp luật bảo hộ Sở hữu trí tuệ là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất của pháp luật ở Việt Nam và các văn bản pháp luật về Sở hữu trí tuệ liên tục được đổi mới và hoàn thiện.
Pháp luật sở hữu trị tuệ của Việt Nam
Bảo hộ Sở hữu công nghiệp lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1981 với việc ban hành Điều lệ về Sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất và Sáng chế năm 1981 tập trung vào các quyền về tinh thần hơn là quyền sở hữu của các nhà sáng chế / người sáng tạo. Từ năm 1981 đến năm 1989, bảo hộ Sở hữu công nghiệp ở Việt Nam chỉ có hiệu lực hành chính, mặc dù một số Nghị định của chính phủ đã được ban hành như Điều lệ về Nhãn hiệu hàng hóa (1982), Điều lệ về Giải pháp hữu ích (1988), Điều lệ về Kiểu dáng công nghiệp (1988), Điều lệ về Mua bán li-xăng sở hữu công nghiệp (1988) và Điều lệ về Quyền tác giả (1986).
Pháp lệnh Bảo hộ Quyền Sở hữu công nghiệp đã được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 28 tháng 1 năm 1989 đánh dấu bước ngoặt cho hệ thống pháp luật Sở hữu công nghiệp của Việt Nam. Pháp lệnh đã đặt nền móng cho việc bảo hộ Sáng chế, Giải pháp hữu ích, Kiểu dáng công nghiệp và Nhãn hiệu hàng hoá tại Việt nam. Tuân thủ Pháp lệnh 1989, Chính phủ đã ban hành Nghị định 84/HĐBT sửa đổi, bổ sung các quy định về các đối tượng sở hữu công nghiệp được ban hành vào đầu năm 1990. Pháp lệnh về bảo hộ Quyền tác giả năm 1994 quy định mức độ bảo hộ bản quyền cao hơn.
Một bước ngoặt khác trong quá trình phát triển Pháp luật về Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam là việc ban hành Bộ luật Dân sự, được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1996, hệ thống hóa tất cả các luật hiện hành về dân sự và tạo nền tảng pháp lý quyền sở hữu và quyền công dân. Bộ luật Dân sự 1995 đã thay thế tất cả các quy định pháp lý cũ về Sở hữu trí tuệ, bao gồm Pháp lệnh Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ năm 1989 và Pháp lệnh về bảo hộ Quyền tác giả năm 1994. Để thực hiện, Chính phủ cũng ban hành các nghị định cấp dưới tương ứng về Sở hữu công nghiệp và Quyền tác giả. Những thay đổi đáng kể đã được thực hiện đối với Bộ luật Dân sự 1995 và các văn bản thi hành bộ luật này nhằm đạt được sự tuân thủ Hiệp định TRIPs và các công ước quốc tế khác mà Việt Nam đã tham gia. Trong đó, Hiệp định TRIPs là các Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, những phát minh được tạo ra do sự sáng tạo từ trí óc của con người. Đây là một thỏa thuận pháp lý quốc tế giữa tất cả các quốc gia là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và thay thế Bộ luật Dân sự 1995 kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2006. Trong khi Bộ luật Dân sự 1995 chứa hai mươi sáu điều quy định về quyền sở hữu công nghiệp, Bộ luật Dân sự 2005 chỉ chứa bốn điều khoản quy định chung về bảo hộ sở hữu công nghiệp và giống cây trồng. Tuy nhiên, các đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp đã được mở rộng để tiếp tục bao gồm thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật thương mại, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Liên quan đến quyền tác giả, ngoài việc giảm số lượng các điều khoản liên quan từ ba mươi lăm xuống còn mười bốn, lần đầu tiên trong việc phát triển luật Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, thuật ngữ “quyền liên quan” đã được sử dụng để thay thế cho “quyền và nghĩa vụ của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm thanh, hình ảnh và tổ chức phát sóng”. Các quyền liên quan này bao gồm quyền của các thực thể và cá nhân trong các buổi biểu diễn, bản ghi âm, hình ảnh, chương trình phát sóng và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Bộ luật dân sự số 91/2015 / QH13 được Quốc hội thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015 và thay thế Bộ luật dân sự 2005 kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017 (Bộ luật dân sự năm 2015). Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ bao gồm một điều khoản liên quan đến Sở hữu trí tuệ và được đặt trong Phần quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Điều khoản duy nhất này chỉ quy định nguyên tắc xác định quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với luật pháp của quốc gia nơi các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu được bảo hộ. Theo đó, các quy định về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ tại Việt nam sẽ được tập trung chính trong Luật Sở hữu trí tuệ.
Một bước tiến rất quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ đó là việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ. Trước khi có Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/ QH11, các quy định liên quan đến Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam đã nằm rải rác trên 40 văn bản pháp luật khác nhau và không phải lúc nào cũng phù hợp với nhau và không tuân thủ tất cả các quy định của Hiệp định TRIPs.
Như là một phần của sự nỗ lực gia nhập WTO, Việt Nam đã thống nhất được mê cung của các quy định về Sở hữu trí tuệ xung đột thành một phiên bản được sắp xếp hợp lý, Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2006. Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã được các chủ sở hữu và giới hành nghề Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam coi là một bước tiến lớn để bảo hộ Sở hữu trí tuệ đầy đủ và tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ của TRIPs. Sau đó, các nghị định, thông tư và quy chế đã được ban hành đưa ra các quy định và hướng dẫn chi tiết để thi hành Luật Sở hữu trí tuệ này.
Tuy nhiên, sau bốn năm triển khai thực tế, Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã thể hiện những thiếu sót của mình trong đó một số điều khoản không phù hợp với luật pháp quốc tế cũng như không thể thực hiện được. Theo đó, các sửa đổi và bổ sung đã được đưa ra cho Luật Sở hữu trí tuệ No. 50/2005/QH11 và được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2010 với một số thay đổi quan trọng liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp cũng như quyền đối với giống cây trồng. Cùng với việc thông qua Luật Sở hữu trị tuệ sửa đổi, các Nghị định và Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trị tuệ đã được sửa đổi cho phù hợp.
Để thi hành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Luật Sở hữu trí tuệ đã được sửa đổi để nội luật hóa và thi hành các cam kết quốc tế trong Hiệp định CPTPP (ký ngày 8 tháng 3 năm 2018 và có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14 tháng 01 năm 2019) và Hiệp định EVFTA (ký ngày 30 tháng 6 năm 2019 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 8 năm 2020). Một số điểm mới nổi bật của Luật Sở hữu trí tuệ 2019 là: Thời hạn ân hạn tính mới, trình độ sáng tạo đối với sáng chế lên đến 12 tháng (theo Luật cũ là 06 tháng); Bổ sung thêm cách thức nộp đơn sở hữu công nghiệp qua mạng điện tử theo hệ thống nộp đơn trực tuyến; Hợp đồng Li-xăng nhãn hiệu có hiệu lực theo thỏa thuận của các bên mà không cần phải đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ như trước; và Quy định các đơn nộp sau ngày 14/01/2019 sẽ được xử lý theo quy định của Hiệp định CPTPP.
Đến năm 2022, Luật Sở hữu trí tuệ tiếp tục được sửa đổi lần thứ ba và sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2023; trong đó, các quy định về bảo hộ dữ liệu thử nghiệm đối với hóa chất nông nghiệp sẽ có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2024. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi lần này có phạm vi khá rộng, với 102 điều được sửa đổi, bổ sung; đồng thời cũng sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giá, Luật Hải quan, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Để tuân thủ các quy định trong một loạt các hiệp định về sở hữu trí tuệ, như CPTPP, EVFTA và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) mà Việt Nam mới tham gia ký kết và là thành viên, nhiều điều khoản quan trọng về sáng chế đã được bổ sung và sửa đổi vào Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 nhằm giúp cho quá trình thẩm định sáng chế ở Việt Nam hiệu quả hơn.
Việc sửa đổi, bổ sung cũng được đánh giá là bảo đảm chất lượng, thể chế hóa đầy đủ chủ trương mới của Đảng, phù hợp với các cam kết quốc tế theo các hiệp định thương mại tự do và các điều ước quốc tế khác có liên quan mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
Nội dung của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2022 được thể hiện qua 7 nhóm chính sách lớn, với một số quy định cụ thể như sau:
Một là, bảo đảm quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan.
Hai là, khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách nhà nước, thông qua quy định trao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì một cách tự động và không bồi hoàn, quy định cơ chế phân chia hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, tác giả và tổ chức chủ trì; đồng thời quy định bảo lưu quyền của Nhà nước trong một số trường hợp cũng như nghĩa vụ của tổ chức chủ trì.
Ba là, tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp.
Bốn là, bảo đảm mức độ thỏa đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Năm là, tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ.
Sáu là, nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, theo đó, các quy định liên quan đến bảo vệ quyền được sửa đổi nhằm bảo đảm cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được hiệu quả, hợp lý và khả thi hơn.
Bảy là, bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập.
Qua thực tiễn hơn 15 năm thi hành, Luật Sở hữu trí tuệ đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức, cá nhân xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, góp phần khuyến khích hoạt động lao động sáng tạo, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước…
Luật Sở hữu trí tuệ được hoàn thiện sẽ khuyến khích, tạo động lực cho sự sáng tạo, thúc đẩy những nỗ lực, cống hiến của nhiều cá nhân vào hoạt động cải tiến kỹ thuật, nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội, cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Bên cạnh Luật Sở hữu trí tuệ, không thể không kể đến hệ thống các văn bản quy định chi tiết hay hướng dẫn thi hành như các nghị định, thông tư trong từng lĩnh vực, từng vấn đề liên quan đến quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ. Là sự hợp nhất của ba đối tượng được bảo hộ quyền SHTT bao gồm: (i) quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả; (ii) quyền sở hữu công nghiệp; và (iii) quyền đối với giống cây trồng, hiện tại ngoài Luật Sở hữu trí tuệ, còn có 8 nghị định quy định chi tiết (15 nếu tính cả các lần thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung) và 11 thông tư hướng dẫn thi hành (24 nếu tính cả các lần thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung). Ngoài ra còn có 8 văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ là các quyết định, thông tư, thông tư liên tịch trong các thủ tục liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ dữ liệu thử nghiệm dược phẩm, nông hoá phẩm.
Theo đó, tùy từng quy phạm cụ thể mà các nghị định, thông tư này sẽ tiếp tục được rà soát, từ đó các đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp sẽ được đưa ra, nhất là các quy định nhằm phù hợp với các điều ước mà Việt Nam mới gia nhập như Thỏa ước Lahay và Hiệp ước Budapest mặc dù không có nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan trong Luật Sở hữu trí tuệ.
Theo dữ liệu của Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), trong giai đoạn 2010 – 2021, tại Việt Nam có hơn 65.000 đơn đăng ký bảo hộ sáng chế, hơn 5.000 đơn đăng ký bảo hộ giải pháp hữu ích, 31.000 đơn đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, 480.000 đơn đăng ký nhãn hiệu; qua đó đã có hơn 313.000 văn bằng được cấp. Trong năm 2021, chủ thể là doanh nghiệp chiếm 40,15% tổng số đơn đăng ký bảo hộ sáng chế và chiếm 30% tổng số đơn đăng ký giải pháp hữu ích.
Công ước và điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam tham gia
Việt Nam là thành viên của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thỏa Ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ năm 1949. Nước ta cũng trở thành thành viên của Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) năm 1976 và gia nhập Hiệp ước hợp tác sáng chế (PCT) vào năm 1993. Mặc dù Việt Nam không phải là thành viên của Thỏa ước Nice hay Thỏa thuận Strasbourg, nhưng Việt nam đã thông qua Phân loại quốc tế về hàng hóa và dịch vụ và Phân loại sáng chế quốc tế của các Thỏa ước nêu trên.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước Berne về Bảo vệ các tác phẩm văn học và nghệ thuật vào ngày 26 tháng 10 năm 2004.
Những phát triển xa hơn của Việt nam đối với hội nhập quốc tế bao gồm việc trở thành thành viên chính thức của Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống sao chép trái phép bản ghi âm của họ vào ngày 6 tháng 7 năm 2005, tham gia các tổ chức quản lý tập thể được quốc tế công nhận: như thành viên của CISAC – Liên minh Hợp tác Quốc tế của các tác giả và nhà soạn nhạc và của BIEM – Liên hiệp quốc tế các tổ chức quyền sao chép vào tháng 11 năm 2005. Việt Nam cũng đã ký Công ước Brussels liên quan đến việc phân phối các tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa có hiệu lực tại Việt Nam vào ngày 12 tháng 1 năm 2006. Nghị định thư Madrid đã có hiệu lực tại Việt Nam kể từ ngày 11 tháng 7 năm 2006.
Là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định khung ASEAN về hợp tác Sở hữu trí tuệ vào năm 1996. Hiệp định khung quy định phù hợp với Hiệp định TRIPS và các công ước quốc tế khác làm cơ sở cho hợp tác ASEAN.
Vào tháng 6 năm 1997, Việt Nam và Hoa Kỳ đã tham gia Hiệp định song phương về Bảo hộ quyền tác giả, theo đó quyền tác giả được bảo hộ đối với các tác phẩm của công dân mỗi quốc gia. Việt Nam và Thụy Sĩ cũng đã ký một Hiệp định song phương về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ vào tháng 7 năm 1999.
Hiệp định thương mại song phương mang tính bước ngoặt (BTA) giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về quan hệ thương mại đã được ký kết vào ngày 13 tháng 7 năm 2000 tại Washington, DC. Thông qua thỏa thuận thương mại này, Việt Nam đã cam kết hầu hết các nghĩa vụ được bao gồm trong Hiệp định TRIPS-WIPO. Điểm quan trọng nhất trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ là việc Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 11 tháng 1 năm 2007. Thành tựu này tuân theo thỏa thuận chính thức giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về các điều khoản và điều kiện gia nhập WTO, ký ngày 31 tháng 5 Năm 2006, và sự chấp thuận của Quan hệ Thương mại Bình thường Vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam của Quốc hội Hoa Kỳ ngày 21 tháng 12 năm 2006.
Trong khuôn khổ các cam kết chính về Sở hữu trí tuệ của Việt Nam khi ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) , Việt Nam cam kết sẽ gia nhập Thỏa ước Lahay về Đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp trong vòng 2 năm kể từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực và sẽ bảo hộ kiểu dáng công nghiệp với thời gian ít nhất 15 năm. Để thực hiện cam kết này, Việt Nam đã trao Văn kiện gia nhập Thỏa ước Lahay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp (Văn kiện Geneva 1999) đến WIPO vào ngày 30 tháng 9 năm 2019. Thoả ước này chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2020.
Cùng với việc đã là thành viên của Hiệp ước hợp tác sáng chế (PCT), hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế (Madrid system), công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật…, việc gia nhập Thỏa ước Lahay đã hoàn thiện hơn việc hòa nhập quốc tế của Việt Nam liên quan đến các đối tượng Sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, việc gia nhập này thật sự có ý nghĩa rất lớn trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay của Việt Nam, mang lại rất nhiều lợi ích cho tác giả/cá nhân/tổ chức của Việt Nam cũng như nước ngoài.
Một số văn bản pháp quy về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam
Bộ luật/luật
- Bộ Luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017.
- Bộ Luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2016.
- Luật số 12/2017/QH14 ngày 20 tháng 06 năm 2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
- Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2006.
- Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.
- Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2012.
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 07/2022/QH15 ngày 16 tháng 06 năm 2022, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2023.
Nghị định:
- Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21 tháng 10 năm 2006.
- Nghị định 122/2010/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 02 năm 2011.
- Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21 tháng 10 năm 2006.
- Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2010 sửa đổi Nghị định số 105/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 02 năm 2011.
- Nghị định 99/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 08 năm 2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- Thông tư 11/2015/TT-BKHCN ngày 26 tháng 06 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11 tháng 08 năm 2015.
- Nghị định 131/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 12 năm 2013.
- Nghị định 28/2017/NĐ-CP ngày 20 tháng 03 năm 2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05 tháng 05 năm 2017.
- Nghị định 32/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 04 năm 2012 về quản lý xuất, nhập khẩu văn hóa phẩm không nhằm mục đích kinh doanh, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 06 năm 2012.
- Nghị định 18/2014/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2014 Quy định về chế độ nhuận bút trong lĩnh vực báo chí, xuất bản có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 06 năm 2014.
- Nghị định 21/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 Quy định về nhuận bút, thù lao đối với tác phẩm điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu và các loại hình nghệ thuật biểu diễn khác có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 04 năm 2015.
- Nghị định 88/2010/NĐ-CP ngày 16 tháng 08 năm 2010 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với giống cây trồng, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2010.
- Nghị định 31/2016/NĐ-CP ngày 06 tháng 05 năm 2016 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 06 năm 2016.
- Nghị định 54/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 18 tháng 10 năm 2000.
- Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 2 năm 2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 4 năm 2018.
- Nghị định 75/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2012 quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 11 năm 2012.
Thông tư
- Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14 tháng 2 năm 2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09 tháng 05 năm 2007.
- Thông tư số 13/2010/TT-BKHCN ngày 30/7/2010 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 17/2009/TT-BKHCN ngày 18/6/2009 và Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 13 tháng 09 năm 2010.
- Thông tư số 18/2011/TT-BKHCN ngày 22/7/2011 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007, được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 13/2010/TT-BKHCN ngày 31/7/2010 và Thông tư số 01/2008/TT-BKHCN ngày 25/02/2008, được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2009/TT-BKHCN ngày 27 tháng 3 năm 2009 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05 tháng 09 năm 2011.
- Thông tư 05/2013/TT-BKHCN ngày 20 tháng 02 năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 13/2010/TT-BKHCN ngày 30/7/2010 và Thông tư số 18/2011/TT-BKHCN ngày 22/7/2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06 tháng 04 năm 2013.
- Thông tư 16/2016/TT-BKHCN ngày 30 tháng 06 năm 2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14 tháng 02 năm 2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 13/2010/TT-BKHCN ngày 30 tháng 7 năm 2010, Thông tư số 18/2011/TT-BKHCN ngày 22 tháng 7 năm 2011 và Thông tư số 05/2013/TT-BKHCN ngày 20 tháng 02 năm 2013, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/01/2018.
- Thông tư số 16/2013/TT-BNNPTNT ngày 28 tháng 02 năm 2013 hướng dẫn về bảo hộ quyền đối với giống cây trồng, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 13 tháng 04 năm 2013.
- Thông tư số 15/2012/TT-BVHTTDL ngày 13 tháng 12 năm 2012 hướng dẫn hoạt động giám định quyền tác giả, quyền liên quan, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 02 năm 2013.
- Thông tư 07/2012/TT-BVHTTDL ngày 16 tháng 07 năm 2012 hướng dẫn Nghị định số 32/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm không nhằm mục đích kinh doanh, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 09 năm 2012.
- Thông tư số 04/2016/TT-BVHTTDL ngày 29 tháng 06 năm 2016 sửa đổi, bổ sung một số Điều của Thông tư số 15/2012/TT-BVHTTDL; Thông tư số 07/2012/TT-BVHTTDL; Thông tư số 88/2008/TT-BVHTTDL và Thông tư số 05/2013/TT-BVHTTDL, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 08 năm 2016.
- Thông tư 22/2018/TT-BVHTTDL ngày 29 tháng 06 năm 2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 07/2012/TT-BVHTTDL ngày 16 tháng 7 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn Nghị định số 32/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm không nhằm mục đích kinh doanh, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 08 năm 2018.
- Thông tư 01/2008/TT-BKHCN ngày 25 tháng 02 năm 2008 hướng dẫn việc cấp, thu hồi Thẻ giám định viên sở hữu công nghiệp và Giấy chứng nhận tổ chức đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 23 tháng 03 năm 2008.
- Thông tư 04/2009/TT-BKHCN ngày 27 tháng 03 năm 2009 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01/2008/TT-BKHCN ngày 25/02/2008 hướng dẫn việc cấp, thu hồi Thẻ giám định viên sở hữu công nghiệp và Giấy chứng nhận tổ chức đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11 tháng 05 năm 2009.
- Thông tư 18/2011/TT-BKHCN ngày 22 tháng 07 năm 2011 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007, được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 13/2010/TT-BKHCN ngày 31/7/2010 và Thông tư số 01/2008/TT-BKHCN ngày 25/02/2008, được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2009/TT-BKHCN ngày 27/3/2009, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05 tháng 09 năm 2011.
- Thông tư 04/2012/TT-BKHCN ngày 13 tháng 02 năm 2012 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 01/2008/TT-BKHCN ngày 25/02/2008 hướng dẫn việc cấp, thu hồi Thẻ giám định viên sở hữu công nghiệp và Giấy chứng nhận tổ chức đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công nghiệp, được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2009/TT-BKHCN ngày 27/3/2009 và Thông tư số 18/2011/TT-BKHCN ngày 22/7/2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 29 tháng 03 năm 2012.
- Thông tư 263/2016/TT-BTC ngày 14 tháng 11 năm 2016 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017.
- Thông tư 211/2016/TT-BTC ngày 10 tháng 11 năm 2016 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan đến tác giả, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017.
- Thông tư 13/2015/TT-BTC ngày 30 tháng 01 năm 2015 Quy định về kiểm tra, giám sát, tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; kiểm soát hàng giả và hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 03 năm 2015.
- Thông tư số liên tịch 05/2016/TTLT-BKHCN-BKHĐT ngày 05 tháng 04 năm 2016 hướng dẫn xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 05 năm 2016.
- Thông tư số liên tịch 14/2016/TTLT-BTTTT-BKHCN ngày 08 tháng 06 năm 2016 hướng dẫn trình tự, thủ tục thay đổi, thu hồi tên miền vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 07 năm 2016.
Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn về luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam
Nội dung của nó không phải là lời khuyên pháp lý và không nên được coi là lời khuyên chi tiết trong các trường hợp riêng lẻ. Để được tư vấn vui lòng liên hệ: