Pháp luật Hindu là một trong những hệ thống pháp luật truyền thống được công nhận và coi trọng. Pháp luật Hindu không phải là pháp luật Ấn Độ, nó chỉ là pháp luật của cộng đồng theo đạo Hindu ở Ấn Độ và một số nước thuộc Đông Nam Á. Cũng như pháp luật Hồi giáo, đạo Hindu bắt buộc môn đồ của mình phải có niềm tin vào những giáo điều và cách nhìn nhận thế giới nhất định.
Pháp luật Hindu giáo được hợp thành:
Sastra:
Những quy phạm nói về cách ứng xử của con người. Có 3 dạng Sastra vì thế giới và xử sự của con người được xác định bởi 3 động lực: đức hạnh, sự ham muốn và nỗi khoái cảm. Sastra dạy cách xử sự phù hợp với ý trời – đó là khoa học Dhama, những Sastra khác dạy làm giàu và chỉ huy người khác (artha – khoa học về lợi ích và chính trị), (kama – dạy hưởng khoái lạc như thế nào).
Dharma:
Dharma dựa trên niềm tin về một trật tự thế giới xuất phát từ bản chất của sự việc. Dharma nói về cách xử sự của con người mà không phân biệt những nghĩa vụ, bổn phận tôn giáo và pháp lý. Ví dụ Dharma quy định khi phạm lỗi phải gánh chịu những chế tài gì, xác định trong những trường hợp nào cần phải bố thí, những quy tắc nào khi tiếp khách. Cốt lõi của Dharma là những bổn phận phải tuân theo.
Dharmasastra nibandhara:
Dharma được trình bày trong những bản luận có tên gọi là Dharmasastra. Những bản nổi tiếng nhất được viết bằng thơ như Bộ luật Manu, Luật Yadinavalkia, luật Narad. Các bản Dharmasastra tạo nên tổng thể thống nhất mà không phụ thuộc vào thời gian ra đời của mỗi bản.
Những tuyển tập khác có liên quan chặt chẽ với Dharmasastra là nibanhaza có nội dung giải thích những điều khó hiểu của Dharmasastra, bình luận và sửa chữa những mâu thuẫn trong các Dharmasastra với nhau.
Các tầng lớp xã hội khác đều tuân theo những nibanhaza khác nhau. Theo đó trong trường phái pháp luật Hindu có hai trường phái chính: Mitakara và Daiabhaga. Mỗi trường phái được phổ biến ở những vùng địa lý khác nhau. Trường phái Daiabhaga chiếm ưu thế ở Bengali và Assama, trường phái Mitakasara ở Ấn độ và Pakistan.
Dharma và tập quán:
Dharma liên quan chặt chẽ với tập quán. Các quy phạm của luật tập quán bắt nguồn từ những hoàn cảnh cụ thể về thời gian, địa điểm nên không liên quan đến ý trời – nền tảng của Dharma. Như vậy, luật thực định Hindu là luật tập quán, trong đó học thuyết đạo Hindu dù ít hay nhiều có vai trò nhất định; học thuyết đó quy định những quy phạm ứng xử, các tập quán thay đổi và được giải thích theo đó. Các tập quán có nhiều dạng. Mỗi đẳng cấp đều tuân theo những tập quán của mình và giải quyết những tranh chấp trong phạm vi địa phương dựa trên dư luận xã hội. Các cuộc họp của đẳng cấp giải quyết mọi vấn đề thông qua biểu quyết và những biện pháp cưỡng chế hiệu quả. Chế tài nghiêm khắc nhất là đuổi ra khỏi đẳng cấp – điều này là một nỗi sỷ nhục trong một xã hội mà không thể có người nào sống không trong một nhóm xã hội cụ thể.
Pháp luật thành văn và thực tiễn xét xử của tòa án lệ và pháp luật thành văn đều không được Dharma cho là những nguồn của pháp luật. Nhà cầm quyền có quyền lập pháp. Nhưng nghệ thuật quản lý và những chế định của luật công không thuộc lĩnh vực Dharma mà thuộc Artha. Những đạo luật và mệnh lệnh của nhà cầm quyền là những biện pháp nảy sinh từ nhu cầu thiết yếu tạm thời, chúng thích hợp với những hoàn cảnh cụ thể và thay đổi cùng những hoàn cảnh đó. Cũng như quá trình lập pháp, thực tiễn xét xử của tòa án thuộc Artha. Phán quyết của tòa án với bản chất thực nghiệm không thể xem như án lệ bắt buộc; uy tín của pháp quyết chỉ giới hạn trong một vụ án nhất định.
Pháp luật Hindu qua các giai đoạn phát triển của Hồi giáo, và sự thống trị của người Anh đã có những sự biến dạng đáng kể, điều này đã làm cho nó phai nhạt nhứng giá trị truyền thống. Sau khi tuyên bố độc lập năm 1947, phong trào vì sự cải cách, pháp luật Hindu đã có thể phát triển mà không gặp một sự cản trở nào khác. Toàn bộ tòa án do một cơ quan mới thành lập đứng đầu – Tòa án tối cao Ấn Độ. Tòa án này có quyền phê chuẩn hoặc những quyết định được đưa ra trong thời kỳ thống trị của người Anh. Bằng cách này công việc lặp lại trật tự và hệ thống hóa pháp luật Hindu đã được tiến hành.
Về mặt lập pháp, một ủy ban đặc biệt đã được lập ra để nghiên cứu vấn đề: những cuộc cải cách nào cần được tiến hành trong pháp luật Ấn Độ, trong đó có pháp luật Hindu.
Hiến pháp Ấn Độ đã hủy bỏ chế độ đẳng cấp trong pháp luật Hindu. Các vấn đề về hôn nhân và ly hôn đã được cải tổ cơ bản trong Luật hôn nhân năm 1955. Hôn nhân, theo quan điểm của đạo Hindu là một liên minh thiêng liêng, pháp luật Hindu kinh điển coi đó là một món quà tặng mà nhà gái trao cho nhà trai, người phụ nữ không được hỏi ý kiến về việc đồng ý hay không đồng ý với cuộc hôn nhân, hôn nhân không thể bị hủy bỏ, chế độ đa thê được công nhận. Những quy định này đã được thay thế và cấm đoán, pháp luật cho phép ly hôn, hôn nhân phải xác lập trên cơ sở của sự tự nguyện, pháp luật quy định tuổi tối thiểu để kết hôn. Tuy nhiên, luật mới này chỉ áp dụng cho cộng đồng Hindu.
Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn về các vấn đề liên quan đến pháp luật Hindu giáo: