Công ty Luật TNHH UNILAW giới thiệu về hệ thống pháp luật các nước Hồi giáo

08:00 | |

Hãy cùng công ty luật TNHH Unilaw tìm hiểu về pháp luật các nước Hồi giáo qua bài viết dưới đây:

Sự ảnh hưởng của giáo lý Hồi giáo với pháp luật

Pháp luật đạo Hồi, khác với truyền thống pháp luật của các hệ thống pháp luật khác, nó chỉ là một trong những khía cạnh của đạo Hồi (Islam). Tôn giáo này hợp từ 2 phần chính: 1. Thần học thiết lập nên những giáo điều và xác định những điều linh thiêng mà tín đồ phải tuân theo, 2. Những điều giới luật cho phép làm và cấm không được làm. Pháp luật đạo Hồi liên quan đến phần thứ hai, tức là phần “Shary’a” có nghĩa là “con đường cần theo”.  Nền tảng của pháp luật đạo Hồi một mặt chủ yếu dựa trên  nền tảng cơ bản của tôn giáo (Côran và Sunna). Mặt khác, các nhà luật học trong vòng nhiều thế kỷ đã tạo ra một nền học thuật rộng lớn. Trên nguyên tắc, pháp luật này chỉ áp dụng đối với những người theo đạo Hồi, nguyên tắc tôn giáo làm cơ sở cho pháp luật Hồi giáo sẽ không có hiệu lực nếu một trong các bên không phải là người theo đạo Hồi.

Tư tưởng thống trị trong đạo Hồi là tư tưởng thần quyền, trong đó nhà nước có ý nghĩa là công cụ phục vụ cho tôn giáo. Chính vì thế, xuất phát từ những tư tưởng tôn giáo, các nhà luật gia và các nhà thần học đạo Hồi đã thảo ra hệ thống pháp luật rất chi tiết, và cho rằng, một ngày nào đó toàn nhân gian sẽ tuân theo tôn giáo đạo Hồi và như vậy một xã hội lý tưởng được thiết lập.

Trên thế giới có khoảng 30 nước Hồi giáo và tập trung chủ yếu ở châu Á, Trung Đông, Châu Phi. Nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc của Đạo Hồi, coi Đạo Hồi là quốc giáo như Iran và một số nước Arap khác. Tuy nhiên, hầu như không một quốc gia nào chịu sự điều chỉnh hoàn toàn của luật Hồi giáo. Bên cạnh luật Hồi giáo còn hệ thống pháp luật thực định của quốc gia. Không nên nhầm lẫn giữa luật Hồi giáo với luật thực định của quốc gia Hồi giáo, mặc dù luật pháp luật định của các nước này chịu ảnh hưởng lớn của luật Hồi giáo.

Pháp luật thực định của các nước Hồi giáo thể hiện các đặc trưng sau đây:

  • Pháp luật chịu ảnh hưởng nhiều của các nước phương Tây, đặc biệt là của Anh và Pháp, những quốc gia đã từng thuộc địa hoá các nước Hồi giáo;
  • Pháp luật chịu ảnh hưởng của đạo Hồi, nhất là các quốc gia coi đạo Hồi là quốc giáo như Iran, Afghanistan. Nhiều giáo điều của đạo Hồi được thể chế hoá trong luật thực định;
  • Pháp luật cho phép các công dân, nhất là công dân Hồi giáo, khi đứng trước tranh chấp, lựa chọn hoặc luật Hồi giáo hoặc luật thực định của quốc gia. Chín vì vậy, trong các nước Hồi giáo, bên cạnh toà án nhà nước còn có toà án của đạo Hồi (Toà Shari’a).

Theo tiêu chí sự ảnh hưởng của luật Hồi giáo đối với pháp luật, các nước Hồi giáo được chia ra thành các nhóm sau đây:

Nhóm thứ nhất: bao gồm các nước đã từ là các nước XHCN: Albania, các nước XHCN Trung Á (Kazakhstan, Turkmenistan, Ouzbekistan, Tadjikistan, Kirghizstan). Các nước này do có thời kỳ dài tiến hành xây dựng CNXH theo học thuyết Mac – Lênin nên đạo Hồi không được khuyến khích phát triễn. Tuy đạo Hồi vẫn tồn tại song ảnh hưởng của nó rất hạn chế.

Nhóm thứ hai: bao gồm Afghanistan, Pakistan, các quốc gia ở bán đảo Arap (Arập Xê- út, Cộng hoà Arap Yemen, Oman và Maxcate, Liên bang các Tiểu Vương Quốc Arap, Bahrein, Koweit, Qatar). Pháp luật các nước này thừa nhận tính tối cao của luật Hồi giáo. Tuy nhiên, Koweit đã thông qua một Bộ luật thương mại năm 1961 chịu ảnh hưởng Bộ luật dân sự Ai-Cập mà hình mẫu của nó là Bộ luật dân sự Pháp. Tương tự như vậy đối với trường hợp của Arap Xê- Út.

Nhóm thứ ba: bao gồm những quốc gia trong đó luật Hồi giáo chỉ được dùng để điều chỉnh một số lĩnh vực của đời sống xã hội (vấn đề nhân thân, hoạt động của các tổ chức tôn giáo, đôi khi cả chế độ ruộng đất), trong khi đó pháp luật “hiện đại” điều chỉnh những khía cạnh mới của các quan hệ xã hội.

Trong số các nước Hồi giáo, Thổ Nhĩ Kỳ là một trường hợp đặc biệt. Thổ Nhĩ Kỳ không phải là một nước Arap, và có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế và chính trị với Tây Âu. Cách mạng Kemalist năm 1926 đã tạo thuận lợi cho Thỗ Nhĩ Kỳ tiếp nhận Bộ luật dân sự Thuỵ Sĩ. Luật về nhân thân, gia đình, thừa kế của nước này theo hình mẫu phương Tây. Pháp luật không chấp nhận chế độ đa thê, quyền đơn phương bỏ rơi vợ của người chồng, hoặc việc phân chia tài sản thừa kế không công bằng giữa con trai và con gái.

Cấu trúc pháp luật các nước Hồi giáo

Về mặt cấu trúc, pháp luật đạo Hồi được hợp thành từ hai phần: Phần Shary’a (luật thượng đế) và phần những quyết định của tòa shary’a chứa những quy phạm luật vật chất của đạo Hồi.

Luật Hồi giáo bao gồm hai bộ phận. Bộ phận thứ nhất là học thuyết tôn giáo với các giáo điều mà một tín đồ phải tin. Bộ phận thứ hai là luật thần thánh quy định những gì mà một tín đồ phải làm và không được làm. Luật Hồi giáo giới hạn những nghĩa vụ và quy định cụ thể nội dung các quyền cá nhân. Việc quy phạm các quyền và nghĩa vụ sẽ bị thẩm phán áp dụng các biện pháp trừng phạt. Về nguyên tắc, luật Hồi giáo chỉ được áp dụng để điều chỉnh  mối quan hệ giữa những người Hồi giáo. Mối quan hệ của những người không phải Hồi giáo, sống ở quốc gia Hồi giáo, sẽ được điều chỉnh bằng các quy phạm khác. Ngoài việc làm rõ các nguyên tắc về đạo đức và giáo lý, các luật gia và các nhà thần học Hồi giáo đã soạn ra một pháp luật hoàn chỉnh, chi tiết trên tinh thần tôn giáo. Do luật Hồi giáo có mối liên hệ chặt chẽ với tôn giáo và văn minh Hồi giáo, nên chỉ có những người có kiến thức tối thiểu về đạo Hồi và văn minh Hồi giáo mới có thể hiểu luật Hồi giáo.

Đạo Hồi được hình thành từ thế kỷ VII, khi nhà Tiên tri Mohamet bắt đầu rao giảng các thông điệp từ Thượng Đế Allâh. Mohamet và các đồ đệ của mình rời khỏi kinh thành Mecca năm 622 sau Công nguyên. Ngày mà Mohamet rời khỏi Mecca là ngày bắt đầu Lịch Hồi giáo. Trong lúc châu Âu chìm đắm trong “đêm trường Trung Cổ” thì văn hoá Hồi giáo lại phát triển mạnh mẽ. Đạo Hồi đã bành trướng ảnh hưởng của mình từ bán đảo Arap đến châu Phi, châu Á và Tây Ban Nha.

Các trường phái đạo Hồi khác nhau ở rất nhiều điểm chi tiết, nhưng giống nhau về nguyên tắc. Một người Hồi giáo có thể thay đổi trường phái. Thậm chí hiện nay các trường phái đạo Hồi đang có xu hướng xích lại gần nhau.

Quan niệm về pháp luật trong các xã hội Hồi giáo hoàn toàn khác với các xã hội phương Tây. Người Hồi giáo quan niệm pháp luật là sản phẩm của ý chí thần thánh. Nó không thể bị sửa đổi, và nó là con đường duy nhất cho các tín đồ noi theo.

Các nguồn của pháp luật các nước Hồi giáo

Pháp luật đạo Hồi có 4 nguồn: 1. Côran- sách thánh kinh của Đạo Hồi, 2. Sunna – hay những lời truyền liên quan đến nhà tiên tri, 3. Idjma – khế ước thống nhất của xã hội đạo Hồi, 4. Kias – suy diễn tương tự.

Kinh Coran

Nền tảng của pháp luật đạo Hồi cũng như toàn bộ nền văn minh Hồi giáo là Thánh kinh Coran gồm những lời dạy của Thánh Ala đối với người cuối cùng trong số những Nhà tiên tri và Sứ đồ của mình là Mahomed (570 – 632). Những quy định của Kinh Côran mang tính chất pháp lý  được tìm thấy trong số lượng nhất định các khổ thơ của Côran (luật gia Hồi giáo gọi là những khổ thơ pháp luật). Kinh Coran là một thánh kinh 114 chương, với 6.237 đoạn thơ bao gồm toàn bộ ý tưởng của Thánh Allâh dành cho Mohamet – nhà tiên tri và sứ giả cuối cùng của mìn (570-632). Nói cách khác, kinh Coran chứa đựng các thánh lệnh của Thượng đế. Kinh Coran là nguồn đầu tiên của luật Hồi giáo. Song, chắc chắn là những quy định mang tính pháp lý sẽ không đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa những người Hồi giáo. Nội dung pháp lý của kinh Corann được tìm thấy trong khá nhiều đoạn, điều chỉnh nhiều vấn đề như: nhân dân (70 đoạn), quyền dân sự (70 đoạn), hình sự (30 đoạn), thủ tục tư pháp (13 đoạn), “hiến pháp” (10 đoạn), kinh tế và tài chính (10 đoạn), “luật quốc tế” (25 đoạn).

Sau đây là ví dụ về nguồn luật được thể hiện trong kinh Coran: “khi vay nợ nhau trong thời hạn xác định, cần viết ra thành văn tự. Phải nên có văn tự cụ thể giữa hai bên… hãy để người vay nợ xác nhận rõ… đừng ngần ngại viết ra dù nợ lớn hay nợ nhỏ, và thời gian cũng ghi rõ trên đó. Việc ấy sẽ hữu hiệu hơn như Thánh Allah nhận thấy, để được chắc chắn hơn về sau, và là cách tốt nhất để các bên khỏi nghi ngại nhau…” (Coran, 2:282). “Thượng Đế đã cho rằng việc buôn bán là hợp luật, còn cho vay lấy lãi là không hợp luật” (Coran, 2:282).

Sunna: Sunna kể về đời sống và hoạt động của Nhà tiên tri mà những người theo Hồi giáo cần phải theo. Sunna – tuyển tập những Adat – tức là những truyền thống liên quan đến những hành động và lời nói của Nhà tiên tri Mahomed do nhiều người sau này tái tạo lại. Các Adat được chia ra thành Adat chân chính, tốt và yếu. Chỉ những Adat chân chính mới có thể làm cơ sở để thảo ra những quy phạm pháp luật. Là nguồn thứ hai sau kinh Côran, Sunna có tác dụng tái tạo lại các quy phạm tập quán tồn tại trước khi Hồi giáo xuất hiện.

Idjtihad (những quyền tập thể) được xuất hiện khi các luật gia Hồi giáo tìm kiếm những phương thức giải quyết các tình huống mới mà không mâu thuẫn với Kinh Côran và Sunna. Những quyền tập thể được áp dụng trong những điều kiện cụ thể nhất định để thông qua những quyết định pháp lý sẽ dẫn đến Idjma.và vì thế họ đã tạo ra những quyết định pháp lý (Idjma). Idjma là nguồn thứ ba của pháp luật Hồi giáo, theo ý kiến chung, idjma được sử dụng để đi sâu và phát triển việc giải thích chính thức những nguồn của Thượng đế.

Kias – Những suy xét theo sự  việc tương tự. Nguồn này hình thành từ việc giải thích luật, đó là sự  “kết hợp giữa Thánh kinh và lý trí của con người”. Kias được xem như là phương thức giải thích và áp dụng pháp luật.

Những đặc điểm nổi bật của luật Hồi giáo

Thứ nhất: khó có thể phân biệt giữa các quy định của pháp luật và các quy định tôn giáo, vì người Hồi giáo cho rằng pháp luật và tôn giáo chỉ là một. Luật Hồi giáo can thiệp cả vào những vấn đề mà các hệ thống pháp luật khác xét thấy không cần điều chỉnh bằng pháp luật. Chẳng hạn: luật Hồi giáo quy định giờ đánh răng.

Thứ hai: Luật Hồi giáo có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh lĩnh vực pháp luật truyền thống như hôn nhân – gia đình, thừa kế, hình sự. Còn trong các lĩnh vực pháp luật khác như hợp đồng, sở hữu, thì sự ảnh hưởng của luật Hồi giáo có phần yếu hơn.

Thứ ba: quan niệm về hành vi pháp luật của luật Hồi giáo không giống như các hệ thống pháp luật khác. Hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới đều quan niệm rằng hành vi pháp luật bao gồm những hành vi phải làm và những hành vi không được làm. Nhưng luật Hồi giáo lại quy định thêm hai loại hành vi nữa: hành vi nên làm và hành vi bị khiển trách. Ví dụ: Kinh Coran phê phán những ai giao kết hợp đồng thương mại vào sáng ngày thứ sáu trước buổi cầu kinh buổi trưa. Mặc dù vậy, hợp đồng được ký kết vào sáng thứ sáu không bị mất hiệu lực và người giao kết hợp đồng cũng không phải chịu bất cứ một chế tài nào.

Thứ tư: những người trung thành với đạo Hồi cho rằng luật Hồi giáo là bất diệt, không bao giờ thay đổi, đây là loại hình pháp luật cuối cùng, hoàn thiện nhất, và trong tương lai toàn thể nhân loại phải thừa nhận và tuân thủ nó. Bởi vì nguồn luật cơ bản của nó bắt nguồn từ Thượng Đế (kinh Coran) và người sáng lập Mohamet (Sounna). Theo quan điểm này, các văn bản pháp  luật do Nhà nước ban hành không thể làm thay đổi luật Hồi giáo mà chỉ có thể điều chỉnh những chi tiết mà luật Hồi giáo chưa cụ thể hoá hoặc còn bỏ trống.

Thứ năm: các quy định của đạo Hồi được xây dựng ở mức rất khái quát, do đó tạo thuận lợi cho việc giải thích và áp dụng nó một cách mềm dẻo. Chẳng hạn: Đạo Hồi quy định nghĩa vụ từ thiện. Việc giải thích quy định này có thể theo nhiều cách. Thực hiện nghĩa vụ từ thiện có thể là cho tiền người ăn xin trên đường phố, có thể là thiết lập một hệ thống bảo hiểm xã hội theo mô hình phương Tây.

Thứ sáu: Về nghề luật ở các nước Hồi giáo. Các bên tranh chấp không thường xuyên thuê luật sư đại diện, và đào tạo luật ở các nước này chủ yếu dành cho các học giả, hơn là cho những người hành nghề. Ở Arap Xê – út, những người muốn làm thẩm phán hoặc luật sư phải theo học một khoá thần học, chứ không được đào tạo luật theo cách truyền thống. Theo luật ở các nước Hồi giáo, luật sư chuyên nghiệp được đào tạo chính quy không phải là người bào chữa duy nhất. Trên thực tế, người Hồi giáo thường tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho họ.

[1] Xem trang 174 Luật so sánh – Micheal Bogdan – Kluwer/Norstedts juridik/Tano – 1994 (sách dịch năm 2002).

Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn về các vấn đề liên quan đến pháp luật các nước Hồi giáo:

CÔNG TY LUẬT TNHH UNILAW
Hotline: 0912266811
error: Content is protected !!
Chat Zalo