Những vấn đề chung về bảo hiểm.
– Bảo hiểm là gì ? Theo cách hiểu thông thường bảo hiểm là sự bảo vệ hay bảo đảm an toàn cho con người và cho xã hội trước hiểm họa , biến cố bất ngờ gây ra;
– Vì sao phải có bảo hiểm? “Rủi ro là cơ sở của hoạt động bảo hiểm, là nguồn gốc phát sinh các hoạt động bảo hiểm”.
-Tại sao trong xã hội hiện đại, bảo hiểm càng được mọi người quan tâm và loại hình bảo hiểm càng phát triển?
Trong cuộc sống mỗi con người, gia đình và xã hội từ xưa đến nay cũng luôn phải đối mặt với yếu tố không thuận lợi, ngoài ý muốn đó là hiểm họa, rủi ro. Nguyên nhân gây ra những rủi ro là yếu tố tự nhiên, kỹ thuật và yếu tố xã hội khác.
Suốt trong lịch sử của mình, loài người đã phải chịu đựng và chứng kiến biết bao hiểm hoạ, nào là động đất, núi lửa, bão lụt, hạn hán, sóng thần, dịch bệnh, chiến tranh, tai nạn giao thông, hoả hoạn, phóng xạ, ô nhiễm… Rủi ro, hiểm hoạ xảy ra thường bất ngờ không biết trước về thời gian, địa điểm, quy mô, mức độ thiệt hại.
Trong xã hội hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển nhưng không thể loại trừ yếu tố bất lợi có tính khách quan đó. Dù muốn hay không, nhiều hiểm hoạ rủi ro đã, đang và sẽ còn xuất hiện chi phối đến cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, DN và toàn xã hội. Chính sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc phát sinh tồn tại của bảo hiểm).
Đứng trước thực trạng đó, con người luôn có những hành động tích cực, chủ động bằng tất cả khả năng của mình để ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục nhằm giảm tới mức thấp nhất những thiệt hại về người và của để sớm phục hồi lại quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống.
Các biện pháp phổ biến được con người sử dụng là:
Biện pháp phòng ngừa: là biện pháp do con người sử dụng do nhận thức được quy luật của tự nhiên như đắp đê chống lũ, trồng rừng phòng hộ, xây dựng các trạm phòng cháy, xây dựng hệ thống dự báo thời tiết, hệ thống biển báo an toàn giao thông …
Biện pháp cứu trợ: biện pháp này được thực hiện khi đã có rủi ro xảy ra để khắc phục hậu quả của rủi ro. Biện pháp này có thể do chính quyền nhà nước thực hiện hoặc do các tổ chức, cá nhân thực hiện trên tinh thần nhân đạo và mang tính tự nguyện nhằm giúp đỡ các tổ chức, cá nhân gặp rủi ro khắc phục các hậu quả.
Biện pháp dự trữ – bảo hiểm: đây là biện pháp được con người áp dụng từ xa xưa khi con người chưa biết đến bảo hiểm nhưng họ đã có ý thức được việc làm cần thiết để bảo đảm cho sự sinh tồn như: dự trữ lương thực, vật nuôi trong ngày săn bắn được nhiều để dùng cho những ngày mưa rét không đi săn bắn và hái lượm được. Đó là là những dấu hiệu đầu tiên về hoạt động bảo hiểm mang tính chất tự bảo hiểm.
Bảo hiểm thực chất là việc con người phải dành ra một phần sản phẩm hay thu nhập trong kết quả lao động hàng năm của mình để lập ra quỹ dự trữ đủ lớn về vật tư hoặc bằng tiền (quỹ đó gọi là quỹ dự trữ bảo hiểm ) nhằm :
1/-Hỗ trợ tài chính cho việc đề phòng và hạn chế tổn thất khi hiểm hoạ chưa hoặc đang xảy ra.
2/-Bù đắp và bồi thường kịp thời những thiệt hại và tổn thất về người và tài sản, sau khi xảy ra hiểm hoạ.
Có 3 loại quỹ được thành lập và chi dùng cho mục đích nêu trên là :
Quỹ dự trữ nhà nước được lập ra từ ngân sách nhà nước (quỹ dự phòng trong ngân sách, quỹ dự trữ quốc gia, quỹ dự trữ tài chính ). Quỹ này thuộc sở hữu nhà nước do nhà nước quản lý, nó được sử dụng để bù đắp những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra trên diện rộng, quy mô lớn, quỹ này không được sử dựng khi rủi ro thiệt hại mang tính cá biệt. Do đó nó không đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của từng tổ chức, gia đình, cá nhân.
Quỹ dự phòng riêng của từng tổ chức, cá nhân, gia đình: (Quỹ dự trữ phân tán) Quỹ này do các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân tự lập ra bằng thu nhập của mình, họ tự quản lý, sử dụng nên, đáp ứng kịp thời, nhanh chóng chủ động đối với những tổn thất vừa và nhỏ. Tuy nhiên, do quy mô quỹ không lớn, không thể bù đắp cho những tổn thất lớn, không phát huy được tính cộng đồng tương trợ, nó chỉ đóng khung trong từng đơn vị, không cơ động, có thể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, lãng phí vốn, hiệu quả kinh tế không cao.
Quỹ bảo hiểm tập trung mang tính cộng đồng : Quỹ này được lập bằng tiền do đông đảo những tổ chức, cá nhân có cùng khả năng gặp những biến cố nào đó đóng góp, tạo lập quỹ theo một chế độ thống nhất và bình đẳng. Nó được sử dụng để phòng ngừa và bù đắp những tổn thất cho người tham gia lập quỹ khi có sự kiện bảo hiểm xuất hiện. Chủ thể đứng ra tổ chức lập, quản quỹ bảo hiểm có thể là cơ quan nhà nước hay một tổ chức, doanh nghiệp họ thực hiện công việc này có thể không vì mục tiêu lợi nhuận hoặc hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Nhưng chúng giống nhau ở chỗ:
Phương thức tạo lập và sử dụng quỹ này trên nguyên tắc “lấy số đông bù cho số ít hay cộng đồng hoá trách nhiệm, hay phân tán chia nhỏ rủi ro cho nhiều người cùng gánh chịu” nên nó mang tính kinh tế, tính xã hội cao.
Đối với mỗi cá nhân hàng năm chỉ phải chi ra một lượng tiền nhỏ để đóng phí bảo hiểm, không ảnh hưởng đến đời sống của mình. Đối với các DN thì phí bảo hiểm là một chi phí xã hội cần thiết nó được hạch toán vào giá thành sản phẩm.
Hình thức dự trữ bảo hiểm này sẽ đáp ứng một cách đầy đủ, linh hoạt nhất đối với mọi nhu cầu đa dạng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Nó có khả năng thanh toán nhanh, bù đắp lớn giúp cho người tham gia bảo hiểm khắc phục nhanh chóng những thiệt hại, đảm bảo cho quá trình sản xuất và đời sống phát triển bình thường
Dưới góc độ kinh tế tài chính thì bảo hiểm đó là sự bảo đảm về mặt tài chính khi gặp phải những thiệt hại, mất mát do biến cố rủi ro gây ra cho các chủ thể tham gia lập quỹ baỏ hiểm.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người thì nhu cầu bảo đảm ổn định sản xuất và đời sống ngày càng cao các loại bảo hiểm khác nhau đã ra đời để đáp ứng nhu cầu đó.
Người ta ví “không có bảo hiểm như đi trên cầu thang không có tay vịn”. Bảo hiểm là một yếu tố, một yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức và không chỉ đơn thuần làm lá chắn bảo vệ cho đối tượng tham gia mà rộng hơn nó đảm bảo cho sự ổn định và phát triển cả nền kinh tế cho cả xã hội.
Khi nền kinh tế càng phát triển, nhu cầu bảo hiểm ngày càng đòi hỏi đa dạng (do rủi ro khách quan là không thể loại trừ, chỉ có thể hạn chế ở mức độ nào đó, thậm chí có nhiều hiểm hoạ rủi ro mới xuất hiện… người dân có thu nhập ngày càng cao, nhu cầu cần được bảo vệ một cách chủ động càng lớn… từ nhu cầu đó, nhiều hình thức bảo hiểm khác nhau ra đời- trong đó có loại hình bảo hiểm mang tính kinh doanh. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm không ngừng phát triển và trở thành một ngành, lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, thu lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh doanh. Hai mục đích đó vừa là tiền đề, vừa là điều kiện để hoạt động bảo hiểm tồn tại và phát triển.
Do tính chất đa dạng của các loại rủi ro xâm hại đến lợi ích của nhiều chủ thể đòi hỏi phải có nhiều loại hình bảo hiểm:
– Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm có bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người, bảo hiểm TNDS;
– Căn cứ vào tính chất pháp lý trong bảo hiểm có bảo hiểm bắt buộc bảo hiểm tự nguyện;
Căn cứ vào tính chất, phương thức và mục đích sử dụng các loại quỹ bảo hiểm tập trung mang tính cộng đồng, người ta chia bảo hiểm thành hai loại bảo hiểm mang tính kinh doanh và bảo hiểm phi kinh doanh:
Bảo hiểm không mang tính kinh doanh là loại hình bảo hiểm do nhà nước thực hiện nhằm thực hiện chính sách kinh tế xã hội. Nó đặt dưới sự bảo trợ của nhà nước, mục đích của hoạt động bảo hiểm này không đặt ra mục tiêu kinh doanh lấy lợi nhuận. Loại hình bảo hiểm phi kinh doanh ở nước ta hiện nay là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi …
Bảo hiểm có tính kinh doanh là hoạt động bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện thông qua việc lập quỹ bảo hiểm từ nguồn thu phí bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân tham gia, sau đó quỹ này được sử dụng để bồi thường, chi trả cho các trường hợp thuộc diện được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm.
Nếu so sánh giữa bảo hiểm không mang tính kinh doanh mà điển hình là bảo hiểm xã hội với loại hình kinh doanh bảo hiểm thì giữa chúng có những điểm giống nhau đó là: chúng đều có mục đích giúp ổn định kinh tế, đảm bảo đời sống, khắc phục khó khăn do nguyên nhân khách quan gây ra. Người tham gia đều có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm. Bên cạnh đó, chúng có điểm khác nhau cơ bản sau:
Nội dung phân biệt | Bảo hiểm xã hội (một loại hình bảo hiểm không mang tính kinh doanh) | Kinh doanh bảo hiểm |
Bản chất | Là một chính sách thuộc lĩnh vực đảm bảo xã hội của một nhà nước | Là một dịch vụ tài chính xuất phát từ nhu cầu được bảo vệ, ngoài sự đảm bảo chung của xã hội |
Đối tượng bảo hiểm | Là người lao động, người làm công, ăn lương | Con người, tài sản, trách nhiệm dân sự |
Phạm vi
bảo hiểm |
Trong giới hạn một quốc gia | Vượt ra ngoài phạm vi quốc gia(Tái bảo hiểm ). |
Nguồn hình thành quỹ
bảo hiểm |
Chủ yếu huy động sự đóng góp của người lao động,người sử dụng lao động và có thể một phần trợ cấp từ ngân sách. | Được tạo lập từ sự đóng góp phí của tổ chức, cá nhân có nhu cầu được bảo hiểm. |
Mục đích
sử dụng quỹ
|
Để trợ cấp cho người lao động khi họ tạm thời hay vĩnh viễn mất sức lao động. | Chi bồi thường cho những tổ chức, cá nhân tham gia gặp rủi ro thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. |
Mục tiêu
hoạt động |
Không vì lợi nhuận mà vì quyền lợi của người Lao động và của cả cộng đồng. | Nhằm mục tiêu kinh doanh lấy lợi nhuận |
chủ thể QL quỹ BH | Do cơ quan nhà nước quản lý theo quy chế chung thống nhất. | Doanh nghiệp bảo hiểm |
Luật điều chỉnh | Bộ luật lao động và VBPL về bảo hiểm xã hội khác | Luật kinh doanh bảo hiểm |