KHÁCH THỂ CỦA LUẬT HỌC SO SÁNH VÀ VIỆC PHÂN LOẠI CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT TRÊN THẾ GIỚI

10:49 | |

Luật học so sánh luôn hướng đến những mục đích nhất định. Sự lựa chọn các mục đích là một quá trình nhận thức bao quát bao gồm toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia và các yếu tố riêng biệt là các ngành pháp luật. Trong quá trình nghiên cứu, luật học so sánh cần phản ánh một cách chu đáo và kịp thời các qúa trình xã hội và các qúa trình diễn ra trong lĩnh vực pháp luật. Thu nhận, làm rõ và ghi nhận các nhu cầu xã hội mà sự điều chỉnh của pháp luật đối với các nhu cầu đó đòi hỏi phải tiến hành việc phân tích, so sánh với các hệ thống pháp luật nước ngoài. Vì thế việc xác định các khách thể của Khoa học luật so sánh là điều hết sức cần thiết.

Khách thể của luật luật so sánh có những nét chung như: 1. Có những khách thể ổn định, trong mọi trường hợp bao giờ cũng đòi hỏi phải có sự chú ý, quan sát, nghiên cứu, phân tích. 2. Có thể có những khách thể nảy sinh và tồn tại một cách định kỳ, rơi vào tầm quan sát của nhà luật học nghiên cứu so sánh tùy thuộc vào mục đích được đặt ra cho họ. 3. Có một số khách thể của luật học so sánh đòi hỏi phải làm rõ các thuộc tính của chúng. 4. Có những khách thể của luật học so sánh có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Các khách thể của luật học so sánh

Hiện thực pháp luật:

Hiện thực pháp luật là khách thể rộng lớn nhất và năng động nhất của luật học so sánh. Hiện thực pháp luật bao gồm trạng thái và những thay đổi trong lĩnh vực nhà nước và pháp luật. Trước tiên đó là những qúa trình phát triển của các nhà nước nước ngoài, của chính sách các nhà nước đó, đặc biệt là các chính sách trong lĩnh vực pháp luật, của các thiết chế nhà nước, chế độ chính trị. Điều có ý nghĩa quan trọng bởi việc nghiên cứu mối quan hệ đối với pháp luật với tư cách là hiện tượng và nhân tố của đời sống xã hội, đối với các văn bản quy phạm pháp luật và vai trò của đạo luật, đối với sự tiến triển của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và các ngành luật. Trong quá trính nghiên cứu không được bỏ qua trạng thái của các thiết chế bảo đảm pháp luật – các cơ quan tư pháp như: tòa án, viện kiểm sát, công an cùng các tổ chức bổ trợ tư pháp… Với các hoạt động này cho phép người nghiên cứu hình thành được bức tranh xác thực về việc áp dụng pháp luật.

Các hiện tượng và thiết chế pháp luật

Các hệ thống pháp luật trên thế giới vô cùng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, mỗi hệ thống pháp luật lại có ảnh hưởng cơ bản đến hệ thống pháp luật quốc gia. Ở đây bản chất và tỷ trọng của các nguồn pháp luật, thái độ công dân đối với pháp luật, vai trò của các thiết chế nhà nước và xã hội trong sự khẳng định các chế độ pháp luật.

Néu thiếu đi sự nghiên cứu, tìm hiểu những nguyên nhân ban đầu, gốc rễ đó thì chúng ta khó có thể nhận thức đầy đủ được những hình thức pháp lý giống nhau và sự giống nhau được quan sát từ bên ngoài của các đạo luật, của cấu trúc của các Hiến pháp, của các chế định pháp luật… do vậy, cần phải cân nhắc sự ảnh hưởng của các hệ thống pháp luật, dù rằng sự ảnh hưởng này là gián tiếp và không đáng kể.

Các học thuyết, các quan điểm và các quan niệm pháp luật

Các học thuyết và quan điểm pháp luật là những khách thể có khả năng được so sánh nhiều nhất. Trong khoa học pháp lý, có những học thuyết, quan điểm được thừa nhận rộng rãi như về quyền lực nhà nước, tính tối cao của pháp luật, của đạo luật, của nhà nước pháp quyền, các quyền con người… Ở các nước, các quan điểm này đã trở thành yếu tố định hướng lý luận chung để các nhà khoa học và chính trị tiếp nhận và thực hiện chúng trong thực tiễn.

Các quan điểm khoa học của các nhà nghiên cứu luật học có những đặc trưng lớn hơn và điều đó được thể hiện rõ nét không chỉ bên trong các quốc gia mà còn cả trong việc so sánh chúng ở phạm vi rộng lớn hơn.

Ngoài ra, sự khác nhau trong trình độ ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của các quốc gia cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng, bởi lẽ chính điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.

Các hệ thống pháp luật của các quốc gia

Hệ thống pháp luật quốc gia là một khách thể khó lựa chọn các tiêu chuẩn để so sánh, do tính chất phức tạp và quy mô của khách thể này. Khái niệm hệ thống pháp luật được hiểu ở nhiều khía cạnh, nội dung hợp thành nó. Hệ thống pháp luật quốc gia là khối lượng các văn bản quy phạm được tổ chức theo cơ cấu định hướng, hình thành và hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc chung. Hệ thống đó bao gồm: 1. Các mục đích của pháp luật; 2. Các nguyên tắc của việc xây dựng hệ thống pháp luật; 3. Trật tự xây dựng pháp luật; 4. Các đạo luật; 5. Các văn bản và các quy phạm pháp luật quốc tế đã được phê chuẩn; 6. Các mối liên hệ và tương quan pháp luật bên trong của hệ thống.

Với cách tiếp cận này sẽ giúp cho việc làm sáng tỏ được những yếu tố chung và đặc thù trong các hệ thống pháp luật của các quốc gia. Qua đó sẽ giúp làm rõ các mối liên hệ, nguồn gốc của hệ thống pháp luật quốc gia với các hệ thống pháp luật trên thế giới.

Các văn bản và tống thể pháp luật được hình thành trong các liên minh quốc gia

Trong những năm gần đây, khách thể này ngày càng được phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, đóng vai trò quan trọng trong đời sống của các quốc gia thuộc các liên minh và khối, tổ chức quốc tế và khu vực nhất định. Với khách thể này, việc so sánh có thể được tiến hành giữa các văn bản pháp luật chung của khối, liên minh, tổ chức khác; giữa các văn bản của khối, liên minh, tổ chức với văn bản pháp luật của quốc gia.

Các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia

Đây là loại khách thể được chú ý nhiều nhất trong khoa học luật so sánh. Bởi lẽ, với khách thể này cho phép các nhà luật học so sánh tìm thấy cả những đặc điểm chung của các hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các xu hướng phát triển trùng hợp của chúng lẫn các đặc thù trong các hệ thống đó. Ở đây muốn nói đến việc so sánh các nguồn pháp luật, các tiêu chuẩn phân loại các ngành luật, các đối tượng và khối lượng điều chỉnh trong phạm vi của các ngành luật, về mối liên hệ pháp luật giữa các hệ thống. Vai trò thực hiện của luật và các giới hạn của sự điều chỉnh riêng của luật được xác định. Từ đây có thể tìm thấy mối tương quan giống nhau hoặc khác nhau giữa luật và văn bản dưới luật.

Các ngành, tiểu ngành

Trong phạm vi các hệ thống pháp luật sự phân loại các ngành luật có thể trùng hợp nhau, tuy nhiên sự trùng hợp này nhiều khi mới chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, còn nội dung bên trong lại có những đặc thù nhất định. Đối tượng, khối lượng, các phương pháp điều chỉnh, mối tương quan giữa các bộ luật và luật chuyên ngành khác, tỷ trọng của các chế định pháp luật trong các ngành có sự khác nhau một cách căn bản. Ở một số nước, văn bản luật chiếm ưu thế trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật song ở một số nước khác văn bản dưới luật lại chiếm ưu thế.

Các chế định pháp luật

Các chế định pháp luật với tư cách là các tổ hợp của các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội đồng tính chất trong cùng một lĩnh vực là khách thể của luật học so sánh. Thông thường, việc so sánh các chế định đó là đối tượng của việc nghien cứu phân tích. Trong khi các chế định ngành và liên ngành được xem xét một cách khác nhau và không phải bao giờ cũng dễ dàng phát hiện ra chúng. Việc này đòi hỏi trước hết phải xác định chế định pháp luật đó thuộc cấu thành của một hay nhiều ngành luật, chẳng hạn chế định hợp đồng, quyền chủ thể, trách nhiệm…

 

Các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác

Các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác là loại khách thể phổ biến của luật học so sánh. Với nhu cầu so sánh lập pháp, hoạt động so sánh các đạo luật nhằm tìm ra ở sự nghiên cứu so sánh đó những điều tương tự, giống nhau trong đối tượng diều chỉnh pháp luật, trong hình thức và phương pháp của sự điều chỉnh pháp luật. Tuy nhiên, với loại khách thể này cần phải tránh khuynh hướng áp dụng pháp luật nước ngoài một cách không chọn lọc, vì thế khi nghiên cứu các luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác của các nước, thứ nhất, cần phải đánh giá đúng đắn các giới hạn của sự trùng nhau hoặc của sự không trùng nhau trong các đối tượng điều chỉnh của các luật và văn bản quy phạm pháp luật khác; thứ hai, làm sáng tỏ một cách chính xác vị trí của văn bản đó trong hệ thống của sự điều chỉnh ngành hoặc liên ngành và sự tương quan của chúng với các văn bản quy phạm pháp luật khác; thứ ba, nghiên cứu thông tin về thực tiễn áp dụng của đạo luật được so sánh nhằm tránh những tương tự hình thức.

Các quy phạm pháp luật:

Các quy phạm pháp luật là khách thể đồng hành nhưng nhiều khi cũng là khách thể độc lập của Luật học so sánh. Việc tiến hành so sánh đối với loại khách thể này cần chú ý một số vấn đề như: Việc phân chia các quy phạm pháp luật được sử dụng trong các hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau không phải bao giờ cũng giống nhau; Tính đa dạng của sự phân loại có thể mang tính đặc thù, ví dụ như: quy phạm – nguyên tắc, quy phạm – định nghĩa; quy phạm – bảo vệ…

Kỹ thuật pháp lý:

Kỹ thuật pháp lý tức là tổng thể tất cả các quy tắc và thủ pháp của việc xây dựng và thể hiện các quy phạm pháp luật trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật là đối tượng của luật học so sánh. Ngoài những quy tắc, thủ pháp chung, ở các quốc gia khác nhau có không ít các quy tắc và thủ pháp đặc thù của kỹ thuật pháp lý thể hiện đặc trưng của ngôn ngữ và văn hóa cũng như của truyền thống của quá trình làm luật. Tiếp cận so sánh pháp luật dưới góc độ này cho phép nhìn nhận một cách đúng đắn và thận trọng các hiện tượng pháp luật.

  1. PHÂN LOẠI CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CƠ BẢN HIỆN NAY

2.1. Các tiêu chuẩn phân loại hệ thống pháp luật

2.1.1. Nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các hệ thống pháp luật trên thế giới

Xuất phát từ thực tiễn pháp luật, truyền thống pháp luật của các quốc gia khác nhau; sự ảnh hưởng của các khu vực, chế độ chính trị khác nhau đã làm hình thành trên thế giới những hệ thống pháp luật khác nhau. Theo hiểu biết chung, các nhà khoa học pháp lý phân định thành các hệ thống dựa trên tính chất tương đồng của nó, bao gồm: Pháp luật Châu Âu lục địa (pháp luật continantal), pháp luật Anh – Mỹ (pháp luật Ănglô – Xăcxông), pháp luật các nước Bắc âu, pháp luật Ấn độ, pháp luật các nước Hồi giáo, pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Có sự phân định pháp luật trên thế giới thành những hệ thống pháp luật như trên là do xuất phát từ bản chất của pháp luật là quy tắc điều chỉnh hành vi, vì thế pháp luật được xuất phát từ thực tiễn xã hội khác nhau dẫn đến sự khác nhau giữa chúng.

Dù sự hình thành pháp luật là hết sức đa dạng nhưng hệ thống pháp luật nào cũng được phản ánh qua các yếu tố tạo thành những bộ phận chính của hệ thống pháp luật và phương thức sử dụng các yếu tố này, cụ thể:

  • Hệ thống văn bản pháp luật;
  • Tập quán pháp luật;
  • Thực tiễn xét xử của các toà án;
  • Các học thuyết pháp lý;
  • Địa vị xã hội của những luật gia, các định chế pháp luật như tổ chức luật sư, cố vấn pháp luật;
  • Các thủ tục pháp lý;
  • Các quan niệm về giá trị của pháp luật so với những chuẩn giá trị khác trong xã hội.
    • Các tiêu chí phân loại hệ thống pháp luật

Luật học so sánh căn cứ  vào các tiêu chí khác nhau để phân loại hệ thống pháp luật, tựu chung lại có các tiêu chí cụ thể như:

Căn cứ vào nguồn gốc lịch sử của pháp luật (đại diện tiêu biểu có E. Glasson), trên cơ sở này pháp luật trên thế giới được chia thành 3 nhóm. Nhóm thứ nhất là nhóm pháp luật của các nước mà ở đó thể hiện sự ảnh hưởng lớn nhất của pháp luật La Mã, bao gồm pháp luật của các quốc gia Italia, Rumani, Bồ đào Nha, Hy Lạp, Tây Ban Nha. Nhóm thứ hai là pháp luật của các nước mà ở đó không có sự ảnh hưởng lớn của pháp luật La Mã và pháp luật về cơ bản dựa vào luật tục và các tập quán pháp luật cổ xưa, đó là pháp luật Anh, các nước Xcan- di- vơ, Nga. Nhóm thứ ba là nhóm bao gồm pháp luật các quốc gia chứa đựng trong mình mức độ khác nhau của pháp luật La Mã và của pháp luật Đức gồm có pháp luật Đức, Pháp, Thụy Sỹ. Sự phân loại này đã không nhận được sự ủng hộ của các nhà nghiên cứu pháp luật so sánh, bởi vì nó không chỉ ra được mối liên hệ giữa pháp luật giữa các quốc gia trong cùng một nhóm, chẳng hạn như giữa pháp luật nước Nga với pháp luật nước Anh có gì chung?

Dựa vào nguồn của pháp luật (A. Levi – Ulman): theo tiêu chí này pháp luật trên thế giới được phân thành: 1, hệ thống pháp luật của các nước thuộc địa; hệ thống pháp luật Ăng lô- xắc xông, tức là pháp luật của nước theo pháp luật án lệ; 3, hệ thống pháp luật Hồi giáo.

Dựa vào tiêu chí chủng tộc (G. Sozer – kholl): theo tiêu chí này pháp luật được phân thành: 1, pháp luật Ấn – Âu. 2, Pháp luật Xê – mít. 3, Pháp luật Mông cổ và pháp luật các nước không văn minh. Trong từng hệ thống lại được phân ra từng nhóm nhỏ. Tiêu chí này cũng không được nhiều học giả ủng hộ vì nó chưa bảo đảm tính khoa học.

Dựa vào sự kết hợp yếu tố địa lý và lịch sử. Đây là một tiêu chí quan trọng đảm bảo tính khoa học. Với tiêu chí này việc phân loại có thể tiến hành ở phạm vi rộng nhất, và ngược lại; có thể được phân loại cả ở mức độ của các hệ thống pháp luật lẫn ở phạm vi của các ngành luật cụ thể.

Qua sự trình bày ở trên cho thấy có 3 nhóm tiêu chuẩn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau là những nhóm tiêu chuẩn cơ bản nhất làm cơ sở cho việc phân loại các hệ thống pháp luật cơ bản, đó là: lịch sử của các hệ thống pháp luật; hệ thống các nguồn pháp luật; cấu trúc của hệ thống pháp luật (các ngành luật và các chế định pháp luật cơ bản). Xuất phát từ các tiêu chuẩn có mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau đó có thể phân các loại các thành các hệ thống pháp luật cơ bản hiện nay trên thế giới gồm:  hệ thống pháp luật thông luật, hệ thống pháp luật châu âu lục địa- Rô man – Giéc manh, hệ thống pháp luật Xcan- di- vơ, Pháp luật Châu Mỹ la tinh, Pháp luật Ấn độ,  Hệ thống pháp luật tập quán pháp, Hệ thống pháp luật Viễn đông, Hệ thống pháp luật hỗn hợp.

Điều đáng chú ý, việc phân loại trên cũng chỉ mang tính chất tương đối. Trong khoa học pháp lý hiện nay, việc phân loại hệ thống pháp luật trên thế giới đang tồn tại nhiều vấn đề lý thú được tranh luận. Đó là những vấn đền như: các tiêu chuẩn phân loại, danh mục các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, việc xác định hệ thống pháp luật hỗn hợp, hệ thống pháp luật tôn giáo…

  • Các đặc điểm khái quát của pháp luật trên thế giới
    • Sự kết hợp “yếu tố dân tộc”, “yếu tố quốc tế” và “yếu tố tự phát triển” trong pháp luật

Trong bối cảnh thế giới hiện nay bức tranh pháp luật hết sức đa dạng và phong phú, bất kỳ pháp luật của quốc gia nào cũng là sự kết hợp 3 yếu tố: “yếu tố dân tộc”, ” yếu tố quốc tế” và ” yếu tố tự phát triển”. Việc làm rõ mối tương quan giữa các yếu tố này với nhau đòi hỏi phải làm sáng rõ, chính xác vai trò của nhà nước trong quá trình hình thành pháp luật. Trong điều kiện xã hội hiện đại, “yếu tố tự phát triển” là yếu tố quan trọng có ý nghiã quyết định. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa pháp luật cũng bị cuốn vào quy luật này. Chính vì vậy, dù muốn hay không, pháp luật các quốc gia đều tiếp cận hệ thống pháp luật quốc tế ở các mức độ khác nhau. Mặt khác, bất kỳ pháp luật nào cũng luôn có tính kế thừa, vì thế pháp luật đề mang “”yếu tố dân tộc”.

 

  • Các khuynh hướng phát triển chung của pháp luật trên thế giới

Trong thời đại ngày nay, pháp luật giữ vai trò quan trọng trong quá trình hợp tác và hội nhập. Bởi lẽ, khi mà giữa các quốc gia có mối quan hệ hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và cùng với quá trình mở rộng quan hệ hợp tác lẫn nhau, pháp luật đóng vai trò quan trọng, là yếu tố bảo đảm tính “liên kết ổn định”. Chính vì vậy nhu cầu “pháp luật chung” ngày càng chiếm ưu thế trong pháp luật quốc tế. Từ đây xuất hiện các nguyên tắc pháp lý mới: nguyên tắc đề cao những quy phạm chung của cộng đồng quốc tế; nguyên tắc đề cao các nguyên tắc và quy phạm đã được thừa nhận của luật quốc tế so với các quy phạm của pháp luật quốc gia; nguyên tắc bảo đảm trực tiếp việc bảo vệ bằng pháp luật quốc tế đối với các quyền con người.

Trong đời sống pháp lý quốc tế đã thừa nhận quy luật chung về tính tối cao của Hiến pháp và Luật. Sự ghi nhận nguyên tắc đó trong Hiến pháp của các quốc gia, việc bảo đảm nguyên tắc này trong hoạt động xây dựng pháp luật và việc thực hiện nhất quán nguyên tắc đó trong thực tiễn pháp lý của các quốc gia, điều này đã tạo điều kiện để làm sáng tỏ những điểm chung, điểm tương đồng đặc trưng cho các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới.

Từng quốc gia hoặc từng nhóm quốc gia có thể xác định phương hướng phát triển pháp luật của mình một cách khác nhau. Nhưng sự phối hợp, sự tương thích và xích lại gần nhau của pháp luật quốc gia phản ánh phương hướng liên kết chung. Tất cả những điều trình bày trên cho phép đưa ra một số khuynh hướng phát triển chung của pháp luật. Các khuynh hướng này đặc trưng cho quá trình diễn biến không chỉ của các hệ thống pháp luật trong thế giới hiện đại mà còn đặc trưng cho sự hợp tác giữa các hệ thống pháp luật đó với nhau và với luật quốc tế. Khuynh hướng phát triển chung của pháp luật có thể phân thành 5 nhóm như sau:

  • Nhóm 1: là các khuynh hướng phát triển chung của pháp luật thể hiện các quy luật ổn định ở phạm vi cộng đồng thế giới liên quan đến các giá trị pháp luật đã được thừa nhận chung.
  • Nhóm 2: bao gồm các quá trình và khuynh hướng cùng loại nằm trong phạm vi của các hệ thống pháp luật lớn với các nguồn của chúng.
  • Nhóm 3: là các khuynh hướng phát triển pháp luật mang tính chất phối hợp chặt chẽ bên trong phạm vi của quốc gia liên minh.
  • Nhóm 4: bao gồm các khuynh hướng mang tính khu vực của sự hợp tác pháp luật của các quốc gia và quá trình xích lại gần nhau các hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của các quốc gia đó. Trong tương lai, có khả năng sẽ xuất hiện các cấu thành pháp lý khu vực mới (các tổ chức khu vực mới) mang tính chất chung hoặc chuyên môn.
  • Nhóm 5: Phản ánh các khuynh hướng mang tính chất cục bộ hơn của sự phát triển đa dạng liên quan đến việc phân hóa hoặc hình thành các quốc gia mới. Các khác biệt pháp luật được đánh giá như là những khác biệt bền vững và được quyết định bởi các đặc điểm của từng quốc gia và như là các khác biệt tạm thời cần được khắc phục hoặc như là các khác biệt ngày càng tăng lên do những nguyên nhân chính trị, kinh tế, sinh thái.
    • Sự khác biệt trong các hệ thống pháp luật

Sự phong phú và đa dạng của pháp luật được thể hiện rõ trong nội dung của các hệ thống pháp luật đang tồn tại. Mỗi quốc gia đã tích lũy, bảo vệ và làm phong phú các quan điểm pháp luật, các truyền thống văn hóa pháp luật, các chế định pháp lý đặc trưng của mình. Những điều này được thể hiện trong các hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và trong cơ chế  bảo đảm pháp luật.

Mỗi hệ thống pháp luật có những điểm chung và tồn tại những điểm đặc thù trong hệ thống các nguồn của pháp luật, bởi đây là yếu tố phản ánh đặc điểm đặc trưng của các hệ thống pháp luật, ở đây, có thể khái quát các đặc điểm đó như sau:

  • Các hệ thống pháp luật có nguồn chính giống nhau là hiến pháp và các đạo luật;
  • Trong các hệ thống pháp luật giữa các nguồn pháp luật khác nhau có mối tương quan không giống nhau;
  • Trong các hệ thống pháp luật có các nguồn pháp luật đặc thù (án lệ ở các nước có thuộc hệ thống pháp luật thông luật);

Đặc điểm về sự ghi nhận quy phạm của các nguồn pháp luật. Có cả sự khác biệt trong giá trị hiệu lực pháp lý của các nguồn pháp luật. Điều này được thể hiện ở chỗ các vùng và ở các nước Châu Âu điểm xuất phát của hệ thống pháp luật là tính tối cao của hiến pháp và các đạo luật. Ở các nước khác, quy phạm tập quán lại có hiệu lực cao (một số nước Châu Phi). Ở hệ thống thông luật, án lệ lại chiếm ưu thế. Trong pháp luật Hồi giáo, quy phạm đạo đức – tôn giáo lại là hạt nhân của pháp luật. Tính bền vững của những sự khác biệt như vậy được khẳng định bởi rất nhiều thế kỷ tồn tại của chúng và không thể dễ dàng khắc phục ngay cả trong điều kiện quá trình liên kết kinh tế, văn hóa, thông tin và sự xích lại gần nhau của các cơ sở pháp lý chung được phát triển mạnh mẽ.

Do có sự khác biệt trong cấu trúc quy phạm của các hệ thống pháp luật, cho nên dẫn đến việc giải thích khái niệm và nội dung của chúng cũng không giống nhau. Tiếp đến, trong các hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau, sự phân chia các ngành luật, các chế định pháp luật và mối tương quan lẫn nhau của chúng cũng không giống nhau. Trọng lượng và mức độ phát triển của các ngành luật cụ thể cũng không giống nhau.

Sự khác biệt pháp luật giữa các quốc gia còn được thể hiện trong cả đặc điểm đặc trưng của các khái niệm, của các thuật ngữ. Nếu không làm rõ nội dung của các khái niệm, thuật ngữ đó thì khó có thể nhận thức được bản chất của các hệ thống pháp luật, các mối liên hệ bên trong của chúng, sự hình thành cấu trúc của các quy phạm pháp luật.

Ngoài ra, còn phải chú ý đến những khác biệt về ngôn ngữ quy phạm, văn phong pháp lý đặc trưng cho các hệ thống pháp luật. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc các văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện một cách ngắn gọn hay dài dòng, mang tính hình tượng hay chặt chẽ…

Cấu trúc của các văn bản quy phạm pháp luật cũng được thể hiện không giống nhau. Điều này có thể dẫn đến khó khăn trong sự nhận thức của các nhà nghiên cứu khi làm quen và nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật của các nước khác nhau để phục vụ cho quá trình hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật.

Sự khác biệt của pháp luật còn thể hiện ở phương pháp điều chỉnh pháp luật. Điều đó được thể hiện ở chỗ để điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại hoặc các khách thể mà pháp luật tác động đến là giống nhau, nhưng ở các nước khác nhau lại sử dụng các phương pháp không giống nhau.

Sự khác biệt của pháp luật còn có thể được xuất phát ở các nguồn gốc tư tưởng, tôn giáo và thế giới quan khác nhau của pháp luật. Ở dạng chung nhất, sự khác biệt của pháp luật thể hiện là các khác biệt pháp luật của các quốc gia. Các khác biệt đó được nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan và cụ thể trong quá trình hợp tác pháp luật.

Phần lớn các khác biệt trình bày ở trên liên quan tới các truyền thống và trình độ văn hóa pháp lý. Yếu tố này bảo đảm quan trọng cho thái độ tiếp cận pháp luật của công dân và thái độ của công dân đối với pháp luật. Vì thế, các đặc điểm về ngôn ngữ và văn hóa không thể không được cân nhắc đầy đủ trong quá trình hợp tác pháp luật. Các trường phái pháp luật, sự phụ thuộc đối với các hệ thống pháp luật cũng ảnh hưởng đến sự phản ánh các đặc điểm đó.

Với việc cân nhắc các tiêu chuẩn nói trên có thể phân các khác biệt pháp luật giữa các quốc gia thành 4 dạng sau:

  1. Các khác biệt pháp luật mang tính vững chắc, bất biến (các khác biệt này mang tính lịch sử, truyền thống dân tộc…);
  2. Các khác biệt pháp luật mang tính ổn định tương đối (các khác biệt này phản ánh sự lựa chọn các nguồn pháp luật và mối tương quan của các nguồn pháp luật) ;
  3. Các khác biệt mang tính tạm thời về mặt lịch sử do các điều kiện của thời kỳ quá độ, đặc điểm trong trình độ phát triển kinh tế và xã hội đem lại;
  4. Các khác biệt mang tính tình huống chính trị do phương hướng của các quốc gia và thẩm quyền của các quốc gia trong lĩnh vực pháp luật ở trong đất nước và ở nước ngoài đem lại.

Liên hệ với chúng tôi:

CÔNG TY LUẬT TNHH UNILAW
Hotline: 0912266811
error: Content is protected !!
Chat Zalo