Trong những năm gần đây nguồn đầu tư từ Trung Quốc qua Việt Nam đang lớn dần. Đây là một thách thức mới đối với các doanh nghiệp trong nước. Để tránh những rủi ro trong quá trình hợp tác thì rất nhiều doanh nghiệp có nhu cầu tìm hiểu về Pháp luật Trung Quốc. Gần đây UNILAW đã nhận được khá nhiều yêu cầu của khách hàng về vấn đề này. Hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về pháp luật Trung Quốc qua bài viết dưới đây:
Lịch sử hình thành Pháp luật Trung Quốc
Từ 01/10/1949. Trung Quốc tổ chức theo chính thể dân chủ nhân dân, theo đó hệ thống pháp luật mới đã được thiết lập.
Những năm đầu tiên dưới chính quyền mới mọi đạo luật được ban hành trước đây đều bị hủy bỏ, hệ thống tòa án bị xóa bỏ. Chính quyền mới đã ban hành những đạo luật mới: đạo luật về hôn nhân, về công đoàn, về cải cách ruộng đất… song song với nó hệ thống cơ quan tư pháp mới được thiết lập, gồm có Tòa án và Viện kiểm sát. Tuy nhiên, do chưa có một đội ngũ luật gia có kinh nghiệm, vì thế xuất hiện nhiều trở ngại cho việc vận hành hệ thống pháp luật mới. Sự yếu kém này do nhiều lý do, kể cả sự thiếu các quy định của luật thực định lẫn một cơ chế vận hành hiệu quả.
Trong giai đoạn thập kỷ 60, 70 của thế kỷ 20, Trung Quốc tiến hành cải tổ xã hội và cách mạng văn hóa, Hiến pháp các năm 1954, 1975, 1979 đã củng cố chế độ và vai trò của nhà nước. Trọng tâm của Trung Quốc lúc bấy giờ không phải cho nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế mà nỗ lực cho đấu tranh giai cấp, chống lại hiểm họa bành trường của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ 20, chính sách mới được hình thành ở Trung Quốc, nhiệm vụ trọng tâm là tăng trưởng kinh tế mặc dù các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, vai trò của Đảng cộng sản, sự quản lý tập trung của nhà nước … vẫn được giữ lại. Để tạo ra một hành lang pháp lý, bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững trong điều kiện hiện đại hóa trên 4 lĩnh vực chủ chốt: nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng, khoa học và công nghệ, một hệ thống pháp luật mới được thiết lập. Mở đầu cho sự thiết lập một hệ thống pháp luật mới này là sự ban hành bản Hiến pháp thứ 4 của Trung Quốc – Hiến pháp năm 1982, kéo theo sau sự ra đời của Hiến pháp năm 1982 là sự ban hành một loạt các đạo luật khác: Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực dân sự, luật về quốc tịch, về phát minh, sáng chế, về xí nghiệp hợp doanh và đặc biệt là sự “nội hóa” pháp luật quốc tế vào pháp luật trong nước.
Một số đặc điểm của pháp luật Trung Quốc
Sự đan xen chặt chẽ giữa pháp luật và đạo đức trong cơ chế điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
Mặc dù hệ thống pháp luật hiện nay của Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở của nền kinh tế đang phát triễn theo xu hướng hoà nhập với thế giới bên ngoài, tuy nhiên hệ thống pháp luật này còn mang trên mình những dấu ấn của một số hình thức và ý thức pháp luật thời kỳ phong kiến. Điều này được thể hiện ở việc sử dụng thông lệ, việc hành quyết công khai, việc áp dụng hình thức tra tấn trong quá trình hỏi cung, v.v.. Ở nông thôn, tệ gia trưởng, nạn tham nhũng, lộng quyền của các cơ quan Nhà nước còn phổ biến. Nguyên nhân của đặc điểm này là do Nhà nước Trung Quốc được thoát thai từ một nước nửa phong kiến thuộc địa.”Trung Quốc chịu ảnh hưởng sâu sắc của truyền thống lễ giáo phong kiến hàng ngàn năm. Những truyền thống lễ giáo, những giá trị nhận thức phong kiến đã in sâu vào nền văn hoá Trung Quốc, lối tư duy phong kiến đã ăn sâu vào ý thức con người”. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta quá đề cao ảnh hưởng của tàn dư phong kiến đối với xã hội nói chung và hệ thống pháp luật nói riêng hiện nay của Trung Quốc. Ngay từ đầu thế kỷ XX, sự phân hoá giai cấp trong xã hội Trung Quốc đã làm suy giảm vai trò của thông lệ như là một công cụ chính để giải quyết các mâu thuẩn. Sự phát triễn nhanh chóng của xã hội Trung Quốc trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế trong nửa cuối thế kỷ XX đã dẫn đến đòi hỏi khác quan coi pháp luật như là công cụ cần thiết để lập lại trật tự xã hội, giải quyết các xung đột, mâu thuẫn. Sự thay thế các quy phạm xã hội bằng quy phạm pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội đã đem lại cho hệ thống pháp luật Trung Quốc một nội dung mới. Quy phạm pháp luật không chỉ đóng vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội, mà còn có nhiệm vụ bảo vệ một số quan hệ truyền thống mà trước đây những quan hệ này là đối tượng tác động của quy phạm xã hội, quy phạm đạo đức.
Sự phổ biến phương pháp thử nghiệm trong quá trình xây dựng pháp luật
Đặc điểm này không những là hệ quả tất yếu của sự thiếu kinh nghiệm trong quá trình xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật, mà còn bởi tính đa dạng, phức tạp của những quan hệ xã hội đang và sẽ được pháp luật điều chỉnh. Ngoài ra, quá trình chuyển đổi từ hình thức quản lý xã hội trên cơ sở chính trị sang hình thức quản lý bằng pháp luật, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân cũng tác động mạnh mẽ đến nội dung của hệ thống pháp luật Trung Quốc. Hệ thống pháp luật của Trung Quốc đang ở trong giai đoạn vừa xây dựng vừa hoàn thiện. Bởi vậy có những quan hệ xã hội được điều chỉnh không phải bởi luật, mà bởi các văn bản dưới luật. Việc soạn thảo các văn bản pháp luật đôi khi mang tính chất đối phó, vì thể hiện sự sửa đổi, bổ sung luật ban hành còn diễn ra phổ biến. Luật ban hành thường không cụ thể, do đó để áp dụng luật đòi hỏi phải ban hành văn bản dưới luật kèm theo để cụ thể hoá, chi tiết hoá.
Bên cạnh hoạt động lập pháp tích cực, ở Trung Quốc hiện nay đang diễn ra quá trình hoàn thiện hệ thống các thiết chế pháp luật, hợp lý hoá hoạt động áp dụng pháp luật, tăng cường pháp chế.
Sự gia tăng mạnh mẽ nhu cầu của xã hội đối với pháp luật đã làm thay đổi vai trò và các chức năng của pháp luật đối với xã hội. Trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc ngày càng có nhiều ý kiến ủng hộ quan điểm cho rằng pháp luật không chỉ là công cụ cai trị nhân dân, việc thực thi pháp luật không phải là công việc riêng của đội ngũ công chức Nhà nước mà của toàn xã hội; ủng hộ quan điểm cho rằng việc ban hành pháp luật để quản lý công dân, công dân không phải là đối tượng mà là chủ thể của hoạt động sáng tạo pháp luật và hoạt động thực thi pháp luật; thông qua pháp luật, nhân dân cần tham gia tích cực vào việc quản lý Nhà nước, việc quyết định các vấn đề phát triễn kinh tế, văn hoá – xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Trung Quốc chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau: yêu cầu cải cách thể chế chính trị của Nhà nước Trung Quốc; yêu cầu tiếp tục cải cách và hoàn thiện chế độ kinh tế, thiết lập nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; sự phân hoá trong xã hội đang diễn ra ngày càng gay gắt, tình trạng thất nghiệp gia tăng; quan hệ kinh tế đối ngoại phát triễn với quy mô ngày càng lớn, làm tăng cường ảnh hưởng của những nguyên tắc, thiết chế của pháp luật quốc tế đối với hệ thống pháp luật Trung Quốc.
Một số quan hệ xã hội nhạy cảm không được điều chỉnh bằng pháp luật mà bằng chính sách
Đối với một số quan hệ nhạy cảm, người ta thường hay điều chỉnh bằng chính sách của Nhà nước và Đảng cộng sản. Chẳng hạn, ở Trung Quốc có chính sách kế hoạch hoá gia đình, theo đó mỗi cặp vợ chồng chỉ có một con. Luật hôn nhân cũng quy định các cặp vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện kế hoạch hoá gia đình, nhưng không có văn bản pháp luật nào quy định rõ ràng là mỗi cặp vợ chồng chỉ được có một con.
Nguồn luật của pháp luật Trung Quốc
Nguồn cơ bản của pháp luật Trung Quốc hiện nay là các văn bản pháp luật, đặc biệt là văn bản luật. Bên cạnh đó, nhiều qua hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, kinh tế đối ngoại, còn được điều chỉnh bởi các văn bản dưới luật.
Sự gia tăng nhanh chóng số lượng văn bản pháp luật trong thời gian ngắn là đặc điểm nổi bật của quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Trung Quốc. Sau 10 năm kể từ năm 1979, Trung Quốc đã ban hành 2.700 văn bản quy phạm pháp luật, riêng các cơ quan TW ban hành 1.300 văn bản, trong số đó Đại hội đại biểu nhân dân Trung Hoa (Quốc hội), Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành luật 183 luật, bộ luật, thông qua 64 sửa đổi, bổ sung luật. Số văn bản này nhiều hơn số văn bản do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành trong 30 năm trước; chính phủ ban hành hơn 1.000 văn bản quy phạm, các cơ quan Nhà nước ở địa phương đã ban hành hơn 1.400 văn bản quy phạm, 60% trong số đó liên quan đến lĩnh vực kinh tế. Trong số các văn bản quy phạm pháp luật nói trên phải kể đến Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức chính phủ, Luật bầu cử, Luật tổ chức Toà án, Luật tổ chức Viện kiểm soát, Luật quốc tịch, Luật bảo vệ môi trường biển và đại dương, Luật bảo vệ di sản văn hoá, Luật giáo dục, v.v..
Cũng trong thời gian này, Trung Quốc đã tiến hành công tác hệ thống hoá văn bản pháp luật. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra quyết định huỷ bỏ 150 luật được ban hành trong những năm từ 1949 đến 1984. Chính phủ sửa đổi, huỷ bỏ hơn 3.000 văn bản quy phạm đã hết hiệu lực hoặc còn hiệu lực nhưng mất tính khả thi trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị thay đổi. Bên cạnh đó, công tác pháp điển hoá văn bản pháp luật cũng được tiến hành trong một số lĩnh vực.
Cơ quan tư pháp
Theo Hiến pháp năm 1993, hệ thống toà án Trung Quốc gồm toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự và các toà án đặc biệt khác. Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, giám đốc việc xét xử của các toà án địa phương và toà án đặc biệt khác. Tương tự như ở các nước khác thuộc hệ thống pháp luật XHCN, ở Trung Quốc có hệ thống cơ quan công tố độc lập với toà án.
Để giúp các bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình, Nhà nước Trung Quốc thành lập các tổ chức luật sư. Theo Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về luật sư, luật sư là cán bộ viên chức Nhà nước thuộc ngành tư pháp. Nhiệm vụ của luật sư là giúp đỡ cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trong lĩnh vực pháp luật. Bộ tư pháp có nhiệm vụ quản lý các tổ chức luật sư về tổ chức và kiểm tra hoạt động của các tổ chức này. Trên thực tế, dường như người Trung Quốc không quan niệm rằng nghề luật sư là một nghề quan trọng trong xã hội. Không giống như các luật sư phương Tây theo đó mối quan tâm hàng đầu của họ là quyền lợi của khách hàng, các luật sư Trung Quốc phải đặt lên hàng đầu nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của tập thể. Trung Quốc cũng không khuyến khích sự tranh tụng tại toà án với tư cách là một phương thức giải quyết các tranh chấp giữa các công dân, do ảnh hưởng tư tưởng đạo Khổng. Người Trung Quốc luôn ưa thích biện pháp hoà giải, thoả hiệp giữa các bên tranh chấp.
Bên cạnh hệ thống cơ quan tư pháp, Trung Quốc thành lập Uỷ ban hoà giải nhân dân. Nhiệm vụ của Uỷ ban hoà giải nhân dân là giải quyết các tranh chấp dân sự và các vụ vi phạm hình sự nhỏ, dàn xếp các cuộc tranh chấp trong nhân dân. Uỷ ban hoà giải nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự xã hội và được coi là “một thành tựu mới của hệ thống pháp luật Trung Quốc”. Thành phần của Uỷ ban hoà giải nhân dân từ 3 đến 11 thành viên. Uỷ ban hoạt động dưới sự chỉ đạo của chính quyền nhân dân xã và toà án cùng cấp. Các Uỷ ban hoà giải nhân dân được thiết lập trên cơ sở những tư tưởng Khổng giáo và lòng tin vào giáo dục luân lý, theo đó hoà giải là cách tốt nhất để giải quyết mâu thuẫn trong cộng đồng. Vai trò của cơ quan này rất quan trọng trong đời sống pháp luật ở Trung Quốc, và có người đã gọi các Uỷ ban này là hệ thống tư pháp không chính thức.
Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn về các vấn đề liên quan đến pháp luật: