Công ty luật TNHH UNILAW giới thiệu về hệ thống pháp luật Civil law

07:00 | |

Hệ thống pháp luật Civil law là hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa. Hãy cùng Công ty luật TNHH UNILAW tìm hiểu về hệ thống pháp luật này nhé:

Đạo luật (luật thành văn)

Trong hệ thống pháp luật Dân luật, đạo luật hay văn bản quy phạm pháp luật được coi là loại nguồn chiếm vị trí quan trọng, trung tâm so với các loại nguồn khác.

Trong hệ thống pháp luật này, ở tất cả các quốc gia đều có Hiến pháp thành văn, Hiến pháp giữ vị trí số một trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Giá trị tối cao của Hiến pháp đều được các quốc gia thừa nhận, thể hiện điều này một cách cao nhất là phần lớn các quốc gia đều có cơ chế giám sát của Tòa án đối với tính hợp hiến của các đạo luật thông thường.

Sau Hiến pháp là đến các văn bản luật do Nghị viện ban hành, trong đó vai trò quan trọng là các Bộ luật dân sự và  Bộ luật thương mại vì trong các nước này mảng luật tư được coi là truyền thống.

Vị trí sau đó là các văn bản dưới luật (Reglement) do cơ quan hành pháp ban hành. Các văn bản dưới luật bao gồm các loại sau đây:

  • Décret – tạm dịch là nghị định – do Tổng thống ban hành. Có 2 loại Nghị định: Nghị định được ban hành với mục đích áp dụng luật; và Nghị định độc lập (không phải để áp dụng một luật nào đó);
  • Ordonnance – tạm dịch là Pháp lệnh – do Chính phủ ban hành, với sự phê chuẩn của Nghị viện. Vì vậy, trước đây loại văn bản này được coi là Decret – Loi, tạm dịch là Nghị định – Luật (Điều 38 Hiến pháp nước Pháp năm 1958);
  • Décision – tạm dịch là Quyết định – do Tổng thống ban hành khi cơ chế làm luật thông thường không còn vận hành (Điều 16 Hiến pháp nước Pháp năm 1958);
  • Arrêté – tạm dịch là Thông tư – do Bộ trưởng, Thị trưởng ban hành.
  • Circulaire là một loại Chỉ thị của cấp trên đối với công chức (trong trường hợp này, chúng tôi không tạm dịch là Thông tư, bởi vì người đọc có thể liên tưởng đến khái niệm Thông tư theo pháp luật Việt Nam).

Luật thành văn của nước Pháp được tập hợp chính thức trong Công báo của Cộng hoà Pháp (Journal official de la République Francaise) và các tuyển tập Luật và Nghị định (Lois et Décrets). Trong công báo còn một số phụ lục ghi chép các dự thảo luật.

Ở Đức, các đạo luật được tập hợp trong các tuyển tập như Budesgesetzblatt, Schonfelder: Deutsche Gesetze, Sartorius: Verfassungs und verwaltungsgesetze I.

Bên cạnh sự giống nhau là chủ yếu, vẫn có sự khác nhau trong thực tiễn các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa liên quan đến vấn đề luật thành văn. Người Pháp thích diễn đạt luật thành văn một cách dễ hiểu nhất, nôm na nhất, trong khi đó người Đức thích sử dụng ngôn ngữ chuyên ngành một cách chính xác nhất, làm cho luật pháp trở thành một khoa học khá bí hiểm. Bên cạnh đó còn có sự khác nhau vền vấn đề kiểm soát tính hợp hiến của luật, giải thích luật, v.v..

Việc sử dụng luật thành văn làm nguồn chính cho thấy đặc điểm tư duy pháp lí của Civil law: đó là chủ nghĩa duy lí (rationalism) hay tư duy theo lối diễn dịch, đi từ cái phổ quát đến trường hợp cá biệt. Phương pháp tư duy này bắt nguồn từ viêc coi trọng pháp điển hóa, khái quát các trường hợp của cuộc sống. Nó dẫn tới hệ quả quan trọng là làm thành một hệ thống pháp luật đóng, kém linh động, giới hạn các thẩm phán trong việc áp dụng các văn bản pháp luật có sẵn, từ đó dẫn đến sự ỷ lại, bị động và kém sáng tạo trong hoạt động xét xử.

Đặc điểm của qui phạm pháp luật trong Hệ thống pháp luật Civil law:

Được pháp điển hóa trong các văn bản pháp luật và thường là do cơ quan lập pháp có thẩm quyền ban hành. Các thẩm phán trong quá trình xét xử có nhiệm vụ áp dụng các qui phạm pháp luật mà không được tự tạo ra qui phạm pháp luật tức là không được tham gia vào hoạt động lập pháp. Phán quyết của tòa không tạo thành tiền lệ pháp.

Nguyên tắc sự thống trị của luật (règle de droit) : hầu hết các qui phạm pháp luật được xây dựng sao cho mang tính khái quát nhất, toàn diện nhất, chính xác nhất để thẩm phán có thể tìm thấy ngay trong qui phạm pháp luật giải pháp cho mọi tranh chấp nảy sinh có liên quan, không cần phải giải thích.

Tuy nhiên các nhà lập pháp thì không thể khái quát toàn bộ cuộc sống. Vì thế mà khi đưa ra giải pháp cho trường hợp cụ thể thì không thể áp dụng ngay một quy phạm pháp luật mà cần phải suy xét nó trong cả một hệ thống. Điều này tạo nên rắc rối rất lớn, có thể xảy ra trường hợp các quy phạm pháp luật mâu thuẫn nhau trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống XH.

Các nguồn luật khác:

Tập quán

 Tập quán có tính hai mặt trong hệ thống pháp luật này, nó vừa có tính chất là loại nguồn bổ sung cho pháp luật, ngoài luật thậm chí còn là đối lập với luật. Nhìn chung, ở các nước thuộc hệ thống pháp luật này tập quán mất tính chất là loại nguồn độc lập của pháp luật.

Tập quán pháp là một cách xử sự có ý nghĩa về mặt pháp lý, mà sự cần thiết và phạm vi của nó được chủ thể  pháp luật công nhận một cách tự phát, không cần một văn bản mang tính bắt buộc nào. Bản chất của tập quán pháp được dựa trên 2 yếu tố:

  • Yếu tố khách quan (còn gọi là yếu tố vật chất): đó là việc các xử sự, thái độ, hành vi đã trở thành thói quen một cách tự nhiên. Ví dụ: tập quán theo đó người phụ nữ khi đi lấy chồng thường mang họ chồng;
  • Yếu tố chủ quan (còn gọi là yếu tố tâm lý): chủ thể pháp luật cho rằng thói quen đó mang tính bắt buộc (chấp nhận nó là “luật”).

Theo luật của Pháp, có các loại tập quán pháp sau đây:

  • Tập quán secundum legem: nghĩa là quy phạm tập quán sẽ được áp dụng theo sự dẫn chiếu của nhà lập pháp. Ví dụ: các Điều 645, 663, 671, 674 Bộ luật dân sự dẫn chiếu việc áp dụng tập quán địa phương trong lĩnh vực sở hữu đất đai, sử dụng nguồn nước, xây dựng, v.v.. Thậm chí, nhà lập pháp còn dẫn chiếu việc áp dụng tập quán pháp trong lĩnh vực hợp đồng (các Điều 1135, 1159, 1160);
  • Tập quán praeter legem: nghĩa là quy phạm tập quán sẽ được áp dụng đương nhiên, không phải trên cơ sở sự dẫn chiếu của nhà lập pháp. Ví dụ: vào thế kỷ XIX có tập quán theo đó người phụ nữ khi đi lấy chồng thì đương nhiên mang họ của chồng.
  • Tập quán contra legem: nghĩa là việc áp dụng tập quán có nội dung trái với luật. Điều 931 Bộ luật dân sự đòi hỏi việc tặng cho phải qua thủ tục công chứng. Nhưng trên thực tế, nếu việc tặng cho chỉ theo cách truyền tay thì việc tặng cho này vẫn có giá trị pháp lý. Trong lĩnh vực thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế, tập quán pháp có vị trí đáng kể. Ví dụ: hợp đồng về tài khoản vãng lai giữa ngân hàng và khách hàng thường được điều chỉnh bằng tập quán thương mại. Có tập quán thương mại cho phép chuyển lãi thành vốn, mặc dù tập quán này trái với Điều 1157 Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng việc áp dụng loại tập quán này phải không được trái với trật tự công cộng và những quy phạm mệnh lệnh.

Thực tiễn xét xử:

Quan điểm mang tính chất học thuyết coi thực tiễn xét xử là nguồn của hệ thống pháp luật Dân luật có nhiều điểm mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, đây vẫn được coi là một trong những nguồn bổ sung của pháp luật. Trước hết, điều này liên quan đến “án lệ phúc thẩm”. Tòa án phúc thẩm là cấp xét xử cao nhất. Do đó, về thực chất nhiều quyết định, nguyên tắc của cấp tòa án này đưa ra cso thể được các tòa án khác tiếp nhận khi giải quyết những vụ việc tương tự  với tư cách là án lệ thực tế.

Án lệ được hiểu là các bản án, quyết định của toà án, trọng tài. Cụ thể hơn, án lệ là lời giải thích các quy phạm pháp luật của các thẩm phán. Các bản án Pháp, với tính ngắn gọn, xúc tích, thường có nội dung rất khó hiểu, còn các bản án Đức lại thường rất dễ hiểu.

Ở Pháp, bản án và các phần luận cứ thường rất ngắn, một phần là vì các ý kiến đồng tình và phản đối đều không được công bố, và bản án thường không có phần viện dẫn tới các nguồn khác, trừ các đạo luật. Đặc biệt, các bản án của toà phá á (toá án tư pháp tối cao) thường tóm tắt đến mức rất khó hiểu. Các học giả Pháp ít có năng khiếu bình luận về các Bộ luật (hoặc các văn bản pháp luật khác) hơn các học giả Đức.

Khác với các phán quyết của toà án Pháp, các phán quyết của toà án Đức không chỉ trích dẫn các đạo luật, mà còn trích dẫn cả các phán quyết trước đây và các nguồn luật khác. Như vậy, phán quyết của toà án Đức gần giống như bài luận về khoa học luật. Trong các tạp chí luật, các phán quyết thường được in dưới dạng tóm tắt hoặc trích đoạn, đôi khi phán quyết còn được cấu trúc lại, và nếu có đề cập đến các tình tiết thì chỉ lướt qua. Điều này hơi khó hiểu đối với luật gia Anh – Mỹ, bởi vì theo họ tình tiết của một vụ việc là vô cùng quan trọng.

Học thuyết:

Các học thuyết pháp lý là toàn bộ các công trình nghiên cứu của các học giả, các ý kiến, bài viết, v.v.. Liên quan đến luật. Các công trình nghiên cứu này có hình thức và bản chất đa dạng. Các tác giả chủ yếu là các giáo sư luật, các quan toà và những nhà thực hành luật (luật sư, trọng tài viên, v.v..). Trước khi có luật thành văn, các học thuyết ra đời từ các trường đại học là nguồn quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật của các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Ngày nay, có trường phái phủ nhận vai trò nguồn luật của học thuyết. Nhưng trên thực tế, học thuyết là một nguồn luật quan trọng. Vai tròn của nó được thể hiện ở chỗ: nó tạo ra các thuật ngữ, các khái niệm pháp lý mà các nhà lập pháp buộc phải sử dụng, các phương pháp tiếp cận khoa học pháp lý, và phát triễn văn hoá pháp lý. Ở các nước châu Âu, đặc biệt là Pháp, các phán quyết của toà án thường rất khó hiểu: việc mộ tả các tính tiết của vụ án thường là ngắn và các lập luận không được trình bày rõ ràng trong các bản án, quyết định của toà án. Như vậy, khi người đọc không hiểu, họ phải tìm hiểu thêm các vấn đề đó qua các bài viết nghiên cứu của các học giả. Các học thuyết giải thích rõ vụ việc, giúp người đọc hiểu rõ vụ việc đó, hiểu được quy định của pháp luật, và việc áp dụng các quy định đó trong thực tiễn xét xử. Học thuyết có thể gợi ý cho các nhà lập pháp các giải pháp pháp lý mới, gợi ý cho các thẩm phán cách giải thích luật phù hợp với nhu cầu mới của xã hội. Vì vậy, có thể nói rằng, học thuyết cũng là một loại nguồn của pháp luật.

Trong hệ thống pháp luật Dân luật học thuyết giữ vị trí đặc biệt, vì học thuyết là nền tảng để soạn thảo các nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Hệ thống pháp luật này. Học thuyết đóng vai trò đặc biệt trong việc soạn thảo các đạo luật. Nó cũng được sử dụng rộng rãi trong hoạt động áp dụng pháp luật (trong việc giải thích các đạo luật).

Qua các điểm trên cho thấy hệ thống pháp luật Dân luật đã có sự ảnh hưởng rộng khắp đến đời sống pháp luật trên thế giới. Nó đã làm hình thành một loạt các cấu trúc và quan niệm pháp lý được phổ biến và thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Các cấu trúc và quan niệm đó là:

  • Việc thừa nhận và ghi nhận về mặt lập pháp các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền;
  • Việc thực hiện ở mức độ lập pháp và mức độ áp dụng pháp luật nguyên tắc phân chia quyền lực;
  • Việc bảo đảm quyền tư pháp hiến pháp, tức là việc xây dựng hệ thống giám sát Hiến pháp;
  • Việc thành lập và sự điều chỉnh tư pháp hành chính;
  • Việc tạo ra các điều kiện cho sự phát triển đa nguyên chính trị và đa nguyên pháp lý;
  • Việc bảo đảm cho sự phát triển của tự quản địa phương và tự quản của thẩm phán;

Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn về các vấn đề liên quan đến pháp luật trong nước và quốc tế cũng như hệ thống pháp luật Civil law:

CÔNG TY LUẬT TNHH UNILAW
Hotline: 0912266811
error: Content is protected !!
Chat Zalo