Bộ luật dân sự 2005 và 2015 đều có điều khoản quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Theo đó, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây: a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; b) Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; c) Các bên đã tự hòa giải với nhau. Chúng ta hãy xem Tòa án áp dụng điều khoản này trong thực tiễn xét xử như thế nào.
BÊN CÓ NGHĨA VỤ THỪA NHẬN MỘT PHẦN NGHĨA VỤ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHỞI KIỆN
- Bên có nghĩa vụ có công văn trả lời công văn đề nghị thực hiện nghĩa vụ của người khởi kiện. Trong một bản án, Tòa án nhận xét như sau: Ngày 19/11/2014, Công ty X có Công văn số 863/XD4 trả lời công văn đề nghị thanh toán công nợ của Công ty S về “Khu đô thị thương mại và dịch vụ Văn Giang” trong đó bao gồm cả phần thi công lắp dựng cống hộp và các công việc liên quan đến hạng mục tuyến cống hộp RD01. Căn cứ Điều 162 Bộ luật dân sự năm 2005, việc Công ty X có văn bản phúc đáp Công ty S về khoản thanh toán công nợ được coi là sự thừa nhận một phần nghĩa vụ đối với Công ty S. Vì vậy, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện bị đơn thừa nhận nợ là ngày 20/11/2014. Ngày 10/3/2016, Công ty S có đơn khởi kiện Công ty X gửi Tòa án nhân dân quận Đ1 yêu cầu thanh toán khoản nợ theo hợp đồng. Như vậy, đơn khởi kiện của Công ty S còn thời hiệu, Tòa án nhân dân quận Đ1 thụ lý giải quyết là đúng theo quy định của pháp luật.
- Bên có nghĩa vụ đồng ý đã đồng ý một phần nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án. Bản án số 05/2018/DSST ngày 06/03/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản: Tuy thời hiệu khởi kiện đã hết nhưng trong quá trình giải quyết vụ án bà K đã đồng ý trả cho bà H 50 triệu đồng như vậy đã thừa nhận một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện, căn cứ vào điểm a khoản 1 điều 157 Bộ luật dân sự bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án.
BÊN CÓ NGHĨA VỤ THỰC HIỆN XONG MỘT PHẦN NGHĨA VỤ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHỞI KIỆN
- Thực hiện xong một phần nghĩa vụ bằng việc nộp tiền thanh toán. Bản án số 13/2018/KDTM-PT ngày 30/11/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng: [3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn cho rằng việc vay nợ và chưa trả lãi đến nay đã hết thời hiệu nên không đồng ý trả lãi cho nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo giấy nộp tiền (bút lục số 280) thể hiện nội dung ông Nguyễn Văn Th1 nộp số tiền 964.747.378 đồng để trả nợ vay cho DNTN Dũng Q, ngoài ra tại biên bản làm việc ngày 27/9/2017 nguyên đơn và bị đơn có thỏa thuận về nợ gốc, nợ lãi và bị đơn cũng thống nhất mọi biện pháp xử lý của nguyên đơn (bút lục số 03). Theo Điều 157 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “1.Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây: …b)Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện”. Bị đơn là chủ DNTN Dũng Q ký hợp đồng tín dụng và bị đơn thừa nhận còn nợ nguyên đơn số tiền lãi là 700.715.181 đồng nên bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán.
- Tiếp. Bản án 43/2017/DS-ST ngày 23/08/2017 về tranh chấp dân sự đòi tài sản: Ngày chị K trả nợ lần sau là ngày 23-02-2017 và bị đơn cũng đã thừa nhận nghĩa vụ của mình đối với nguyên đơn là bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 157 Bộ luật Dân sự năm 2015
BÊN CÓ NGHĨA VỤ THỪA NHẬN TOÀN BỘ NGHĨA VỤ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHỞI KIỆN
- Bên có nghĩa vụ thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ trong biên bản đối chiếu công nợ. Trong Bản án 04/2018/KDTM-PT ngày 06/02/2018: tại điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 157 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện quy định tại khoản 1 Điều này.Tại Biên bản đối chiếu công nợ ngày 30/6/2013, Công ty Đ đã thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ của mình trước đó đối với Tổng công ty CĐ. Sau khi đối chiếu công nợ, Tổng Công ty CĐ trình bày có gửi nhiều văn bản có nội dung yêu cầu Công ty Đ trả nợ nhưng Công ty Đ không thực hiện.
- Bên có nghĩa vụ thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ trong tài liệu do mình ban hành. Trong Bản án 57/2018/DS-ST ngày 01/08/2018 về tranh chấp hợp đồng cầm cố đất và vay tài sản: Tuy nhiên đến ngày 15/9/2017 ông H có làm xác nhận cho bà O về việc ông H nợ tiền vay và lãi, tiền vàng cố đất và tiền lúa tổng cộng là 174.000.000 đồng, thể hiện tại “Đơn xin xác nhận ngày 15/9/2017” (BL 04) và được các đương sự thừa nhận. Như vậy, căn cứ vào Điều luật được viện dẫn và căn cứ vào “Đơn xin xác nhận ngày 15/9/2017” được các đương sự thừa nhận thì thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu về phần lãi suất trong vụ án này vẫn còn. Do đó, yêu cầu của bà O buộc ông H trả lãi đối với số tiền tiền vay vốn 10.000.000 đồng kể từ thời điểm vay cho đến nay theo lãi suất quy định của nhà nước là phù với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
- Bên có nghĩa vụ thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ mặc dù chưa xác định chính xác mức độ phải thực hiện. Trong Bản án số 70/2018/KDTM-PT: Căn cứ theo Điều 157 Bộ luật dân sự, thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện. Do đó, thời điểm Bị đơn ban hành Công văn số 151 gửi cho Nguyên đơn được xác định là thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Tính đến ngày Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện (lần thứ ba) tại Tòa án sơ thẩm vào ngày 07/11/2016 là vẫn trong thời hiệu khởi kiện 02 năm theo quy định của pháp luật. Tòa án sơ thẩm đã quyết định đình chỉ xét xử vụ án do hết thời hiệu khởi kiện là không đúng quy định của pháp luật. Ngày 03/9/2015, Bị đơn đã ban hành Công văn số 151/KTTC-TN do bà Vũ Thị Thu H Tổng giám đốc ký gửi Nguyên đơn về việc đối chiếu công nợ và trả lời Công văn số ATIM15CV068, theo đó tại trang 3 đã nêu là Bị đơn không phủ nhận công nợ với Nguyên đơn và sẽ hoàn toàn thiện chí thanh toán cho Nguyên đơn sau khi hai bên cùng đối chiếu để xác định công nợ chính xác từng hợp đồng kinh tế. Như vậy, Bị đơn đã có xác nhận về công nợ với Nguyên đơn dù các bên chưa đối chiếu để xác định công nợ cụ thể.
Lưu ý rằng trong thực tiễn xét xử nếu bị đơn chỉ không thừa nhận phần lãi, thì việc thời hiệu khởi kiện của phần lãi đó không được bắt đầu lại. Cụ thể, trong một bản án, Tòa án nhận định rằng: Căn cứ quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện như viện dẫn trên, thì thời hiệu khởi kiện đối với phần tiền lãi trong trường hợp này là 03 năm kể từ ngày Tổng Công ty CĐ biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, là ngày 01/7/2013 và đến hết ngày 01/7/2017 (03 năm). Ngày 11/5/2017, Tổng Công ty CĐ mới thực hiện việc khởi kiện là thuộc trường hợp đã hết thời hiệu khởi kiện. Công ty Đ đã có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án. Hội đồng xét xử sơ thẩm cần áp dụng điểm e khoản 1 Điều 217, điểm b khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự để đình chỉ yêu cầu khởi kiện đối với phần tiền lãi chậm trả mà nguyên đơn yêu cầu. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm quyết định không chấp nhận yêu cầu và buộc nguyên đơn phải chịu án phí đối với phần không được chấp nhận là không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy cần sửa phần này của bản án sơ thẩm, đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần tiền lãi chậm trả 3.480.627.000 đồng.
Unilaw là một trong những công ty luật đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ luật sư hàng đầu tại Việt Nam. Unilaw cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý về đầu tư, bất động sản, mua bán sáp nhập, hợp đồng và giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc Trọng tài. Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.