TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 845/2023/DS-PT NGÀY 18/12/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 18 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 527/2023/TLPT- DS ngày 02 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2023/DS-ST ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2977/2023/QĐPT-DS ngày 28 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1966 – Có mặt;
Trú Tổ 1, Thôn 4, xã Hồng Sơn, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Văn L, sinh năm 1983; Địa chỉ: Khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận (Văn bản ủy quyền ngày 22/3/2021) – Có mặt;
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1969 – Có mặt;
Địa chỉ: Khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;
Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Thanh S: Bà Phạm Thị Thanh T, sinh năm 1965; Địa chỉ: Thôn Tiến Phú, xã Tiến Lợi, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Văn bản ủy quyền ngày 27/11/2023) – Có mặt;
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Lê Thị T1, sinh năm 1965 – Có mặt;
Trú Tổ 1, Thôn 4, xã Hồng Sơn, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;
Người đại diện hợp pháp của bà Lê Thị T1: Ông Lê Văn L, sinh năm 1983; Địa chỉ: Khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận (Văn bản ủy quyền ngày 22/3/2021) – Có mặt;
3.2. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1967 – Có mặt;
Địa chỉ: Khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;
3.3. Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;
Địa chỉ: Số 230, Quốc lộ 28, thị trấn L, huyện Hà Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận; Công văn số 3600/UBND-NC ngày 10/11/2023 yêu cầu xét xử vắng mặt;
4. Người làm chứng:
4.1. Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1976 – Có mặt;
Địa chỉ: Thôn 1, xã Đ, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;
4.2. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1952 – Có mặt;
Địa chỉ: Khu phố 12, phường N, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận;
4.3. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1970 – Có mặt;
Địa chỉ: Khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;
5. Người kháng cáo: Bị đơn, ông Nguyễn Thanh S;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 15/10/2020, sửa đổi bổ sung ngày 08/12/2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn C trình bày:
Phần đất tranh chấp có diện tích 452,7 m2 thuộc một phần Thửa đất số 88, diện tích 928 m2, Tờ bản đồ Độc Lập, khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận có nguồn gốc của cha mẹ của ông C là cụ Nguyễn Đ1 (chết năm 2005) và cụ Đỗ Thị L2 (chết năm 2014) tạo lập. Năm 1991, ông được cha mẹ cho ông diện tích 452,7 m2 đất này. Khoảng năm 1992- 1993, cha mẹ nói cho ông Nguyễn Thanh S một nửa, nửa còn lại cho cháu nội đích tôn là anh Nguyễn Ngọc H để thờ cúng ông bà, nhưng anh H không sử dụng mà nói để cho ông sử dụng, nên ông trực tiếp sử dụng, xây chuồng heo 100 m2 trên diện tích đất này. Năm 2010, ông xây dựng hàng rào bao quanh phần đất tranh chấp bằng gạch táp lô.
Năm 2000, ông Nguyễn Thanh S được Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 745742, số vào sổ cấp GCN 00345/QSDĐ/209 ngày 15/3/2000, Thửa đất số 88, Tờ bản đồ Độc Lập, diện tích 928 m2, đất màu. Việc Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh S là không đúng trình tự thủ tục và không đúng đối tượng, vì ông S không phải là người sử dụng toàn bộ diện tích 928 m2 và ông cũng không có ký giáp ranh cho ông S hoàn tất hồ sơ cấp giấy.
Ông Nguyễn Văn C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 745742, số vào sổ cấp GCN 00345/QSDĐ/209 ngày 15/3/2000 đứng tên Nguyễn Thanh S và công nhận cho ông C được quyền quản lý, sử dụng, đăng ký kê khai diện tích 452,7 m2 thuộc một phần Thửa đất số 88, diện tích 928 m2, Tờ bản đồ Độc Lập, khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
Bị đơn ông Nguyễn Thanh S trình bày:
Nguồn gốc Thửa đất số 88, diện tích 928 m2, Tờ bản đồ Độc Lập, khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận là do cha mẹ của ông là cụ Nguyễn Đ1 và cụ Đỗ Thị L2 khai hoang. Ông cùng chung sống với cha mẹ tại đây từ năm 1975, đến năm 1986 ông lập gia đình nhưng vẫn ở chung với cha mẹ, lúc này đất đai chưa có giấy tờ. Năm 1998, cha mẹ cho ông toàn bộ thửa đất này và bảo ông đi làm thủ tục thì ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 745742, số vào sổ cấp GCN 00345/QSDĐ/209 ngày 15/3/2000.
Lúc cha mẹ còn sống đã chia đất cho ông C rất nhiều, nhưng ông C đã bán lấy tiền tiêu xài hết. Khoảng năm 1998, vì không còn chỗ nào để ở nên ông C về nhà Tự ở chung với cha mẹ, ông có cho ông C mượn đất để xây chuồng heo và ông C có xây một tường rào để ngăn lại. Sau khi cha mẹ ông chết thì ông C vẫn ở trong ngôi nhà Tự của cha mẹ. Cuối năm 2018 thì ông C tiếp tục bán nhà Tự của cha mẹ để lấy tiền trả nợ rồi về Hồng Sơn ở. Hiện nay ông đã đập tường rào ngăn đôi thửa đất, nhưng chuồng heo thì vẫn còn.
Ông Nguyễn Thanh S không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông C.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T1 trình bày: Bà là vợ của ông C, bà thống nhất ý kiến của ông Nguyễn Văn C.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị L1 trình bày: Bà là vợ của ông S, bà thống nhất ý kiến của ông Nguyễn Thanh S.
Tại Công văn số 2118/UBND-NC ngày 29/8/2022 của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc và người đại diện hợp pháp trình bày: Diện tích 465,4 m2 đất tranh chấp thuộc Thửa đất số 88, diện tích 928 m2, Tờ bản đồ Độc Lập, khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận có nguồn gốc do cha mẹ ông Nguyễn Thanh S sử dụng trước năm 1990. Năm 1992, cha ông S chia một nửa diện tích 928 m2 cho cháu nội là anh Nguyễn Ngọc H sử dụng 465,4 m2 từ năm 1993 đến thời điểm tranh chấp. Năm 1998, ông Nguyễn Thanh S kê khai đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 745742 ngày 15/3/2000 đứng tên Nguyễn Thanh S là không đúng quy định của Luật Đất đai vì không đúng đối tượng sử dụng đất, ông C sử dụng đất ổn định, liên tục từ năm 1993 đến thời điểm tranh chấp hiện nay, nên thuộc trường hợp thu hồi giấy theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013.
Người làm chứng anh Nguyễn Ngọc H (bút lục 100 và 130) trình bày: Ông Nguyễn Văn C và ông Nguyễn Thanh S đều là chú ruột của anh. Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là của ông bà nội của anh để lại. Trước đây, ông bà nội có gọi anh về cho anh diện tích đất này nhưng anh không nhận, vì trước đó ông bà nội đã cho ông C và ông S sử dụng. Theo ông đề nghị Tòa án công nhận cho ông C phần đất này là phù hợp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2023/DS-ST ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận đã quyết định:
Áp dụng Khoản 9, Điều 26; Điều 34; Điều 37; khoản 1, Điều 38; Điểm a, khoản 1, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 4, Điều 32 Luật tố tụng hành chính; Khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai; khoản 2 Điều 26, điểm a, khoản 2, điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
– Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 745742 do Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cấp ngày 15/3/2000 đứng tên ông Nguyễn Thanh S.
– Công nhận cho ông Nguyễn Văn C, bà Lê Thị T1 được quyền sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế 452,7 m2 đất trồng cây lâu năm tọa lạc tại khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, theo Mảnh chỉnh lý thửa đất tranh chấp được Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Hàm Thuận Bắc ký ngày 20/7/2022 kèm theo.
– Buộc ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Thị L1 phải tháo dỡ, di dời 03 cây ổi, 01 cây dừa, 04 cây mãng cầu ta và các tài sản khác (nếu có) để trả lại diện tích 452,7 m2 đất cho ông Nguyễn Văn C, bà Lê Thị T1 tọa lạc tại khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, theo Mảnh chỉnh lý thửa đất tranh chấp được Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Hàm Thuận Bắc ký ngày 20/7/2022 kèm theo.
– Các đương sự có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng; về án phí dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 15/7/2023, bị đơn ông Nguyễn Thanh S có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Bà Phạm Thị Thanh T đại diện hợp pháp cho ông Nguyễn Thanh S trình bày vẫn giữ nguyên kháng cáo yêu cầu bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C, vì các lý do: Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là của cha mẹ, vào năm 1998 thì cha mẹ đã cho ông S và ông S đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2000, chính ông C là người mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S về đưa lại cho ông S, nhưng ông C không có khiếu nại hay thắc mắc gì. Tại vị trí đất này thì cha mẹ có hơn 2.000 m2, cha mẹ cho ông S 928 m2, phần còn lại hơn 1.000 m2 trên đất có căn nhà Tự thì cha mẹ cho ông C và ông C đã kê khai được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần còn lại hơn 1.000 m2 trên đất có căn nhà Tự nhưng ông C cũng không có khiếu nại gì và ông C cũng đã bán hết phần đất có nhà Tự cho người khác. Có nhiều người làm chứng và các chị em ruột của ông C, ông S là bà Đ, bà H1 cũng xác định cha mẹ đã cho ông S toàn bộ 928 m2 đất. Ông C sử dụng đất là kể từ khi ông được ông S cho mượn đất để xây chuồng heo từ năm 2009 chứ không phải là năm 1993 như ông C đã khai. Tuy ông S không có giấy của cha mẹ cho đất, nhưng ông S đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn ông C thì không có giấy tờ cha mẹ cho đất và cũng không có giấy tờ gì khác.
Ông Nguyễn Thanh S và bà Nguyễn Thị L1 thống nhất lời trình bày của bà T. Ông S trình bày cha mẹ có kêu ông gọi anh H về để cho anh H ½ diện tích 928 m2 nhưng anh H không nhận, nên cha mẹ cho ông toàn bộ diện tích 928 m2 đất này.
Ông Lê Văn L đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị T1 trình bày không đồng ý kháng cáo của ông S. Tuy ông C không có giấy tờ cha mẹ cho đất, nhưng ông C đã quản lý, sử dụng đất từ năm 1993, văn bản của Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cũng đã xác định ông C quản lý sử dụng đất từ năm 1993. Tại Biên bản ghi lời khai ngày 12/4/2021 thì ông S đã trình bày năm 1998 thì ông C về ở chung với cha mẹ và xin ông cho mượn đất xây chuồng heo. Tuy thời điểm ông C sử dụng phần đất có tranh chấp không thống nhất là năm 1993 hay 1998, nhưng đều là trước khi ông S được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2000. Trước đây ông S và ông C tranh chấp phần diện tích đất còn thiếu là 159 m2, chứ ông S cũng không tranh chấp phần diện tích 452,7 m2 đất này, như vậy mặc nhiên là ông S đã thừa nhận ông S, ông C mỗi người được cha mẹ cho ½ diện tích 928 m2.
Ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị T1 thống nhất lời trình bày của ông L. Anh Nguyễn Ngọc H trình bày trước đây ông bà nội có kêu anh về để cho anh ½ diện tích 928 m2 mà ông S đứng sổ, nhưng anh không nhận. Ông C là người nuôi ông bà nội, nên anh để cho ông C được hưởng phần diện tích mà ông bà nội cho anh.
Bà Nguyễn Thị Đ và Nguyễn Thị H1 trình bày không có yêu cầu chia cho hai bà phần diện tích mà ông C và ông S đang tranh chấp, vì cha mẹ đã cho ông S toàn bộ diện tích 928 m2 mà ông S đứng sổ. Cha mẹ cũng đã cho ông C hơn 1.000 m2 đất có căn nhà Tự nhưng ông C đã bán hết, nay ông C lại đòi thêm là không đúng. Ông S đã có sổ diện tích 928 m2 nên phần diện tích 928 m2 là của ông S.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến Hội đồng xét xử phúc thẩm và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Đơn kháng cáo hợp lệ; về nội dung đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thanh S đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Hồ sơ vụ án thể hiện cụ Nguyễn Đ1, Đỗ Thị L2 có 06 người con, gồm các ông, bà: Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thanh S, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị H1 và 02 người đã chết.
Diện tích 452,7 m2 đất đang có tranh chấp thuộc một phần Thửa đất số 88, diện tích 928 m2, Tờ bản đồ Độc Lập, xã Hàm Nhơn (nay là khu phố H, thị trấn L), huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận do ông Nguyễn Thanh S đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 745742, số vào sổ cấp GCN 00345/QSDĐ/209 của Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cấp ngày 15/3/2000.
Các đương sự: Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thanh S, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị H1 đều trình bày diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc là của cha mẹ là cụ Nguyễn Đ1, Đỗ Thị L2 đã phân chia cho các con, không còn là di sản của cha mẹ. Nguyên đơn ông C trình bày diện tích đất tranh chấp là của cha mẹ đã cho ông, còn bị đơn ông S và bà Đ, bà H1 thì cho rằng diện tích đất tranh chấp là của cha mẹ đã cho ông S và ông S đã đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, Bản án sơ thẩm đã xác định đất không còn là di sản thừa kế của cụ Đ1 với cụ L2 và xác định quan hệ pháp luật tranh chấp “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là có cơ sở, từ đó không đưa các thừa kế của cụ Đ1, cụ L2 vào tham gia tố tụng, là có căn cứ.
[3] Bị đơn ông Nguyễn Thanh S trình bày cụ Đ1 và cụ L2 đã tặng cho ông toàn bộ diện tích 928 m2, nhưng ông S không xuất trình được tài liệu chứng minh cha mẹ đã tặng cho ông toàn bộ diện tích 928 m2. Trong Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 17/11/1998 của ông S thì phần nguồn gốc sử dụng đất để trống, không ghi nguồn gốc đất từ đâu mà có, trong khi tại thời điểm ông S kê khai đăng ký đất thì cụ Đ1 và cụ L2 vẫn còn sống (cụ Đ1 chết năm 2005, cụ L2 chết năm 2014) mà lại không có văn bản hoặc ý kiến của hai cụ trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S. Mặt khác, Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cũng xác định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông S là không đúng đối tượng sử dụng đất. Do đó, không có căn cứ để xác định ông S được tặng cho toàn bộ diện tích 928 m2.
[4] Người làm chứng bà Nguyễn Thị Đ và bà Nguyễn Thị H1 trình bày khi còn sống thì cha mẹ đã phân chia đất cho các con nên hai bà đều không có yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích đất tranh chấp. Ông S được cha mẹ cho toàn bộ diện tích 928 m2, còn ông C đã bán hết đất mà cha mẹ đã cho ông C, phần diện tích tranh chấp giữa ông C với ông S là của cha mẹ đã cho ông S, nhưng ngoài lời trình bày của mình, hai bà đều không xuất trình được chứng cứ để chứng minh, nên không có cơ sở để chấp nhận.
Người làm chứng anh Nguyễn Ngọc H xác định cụ Đ1 và cụ L2 gọi anh về cho đất nhưng anh không nhận nên hai cụ đã tặng cho ông C và ông C đã trực tiếp quản lý, sử dụng đất. Lời trình bày này của anh H phù hợp với lời thừa nhận của ông S tại phiên tòa sơ thẩm (Bút lục số 130, 131): “Cha tôi lúc đó có nói là sau này nếu ông H, là cháu nội có về thì cắt lại 400 m2 nhưng cháu H không về” và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông S cũng trình bày cụ Đ1 và cụ L2 có kêu ông gọi anh H về để cho 1/2 diện tích mà ông đứng sổ. Như vậy, có căn cứ để xác định lời trình bày của anh Nguyễn Ngọc H là có căn cứ.
Mặt khác, Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 11/7/2022 thể hiện ông S không quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích 928 m2, mà ông C sử dụng một phần diện tích để xây chuồng heo, có xây hàng rào chia ranh giới đất giữa ông C sử dụng với ông S sử dụng. Đồng thời, Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cũng xác định ông C đã sử dụng đất ổn định, liên tục từ năm 1993 cho đến thời điểm tranh chấp.
Do đó, có căn cứ để xác định ông C quản lý, sử dụng phần diện tích đất tranh chấp và cụ Đ1, cụ L2 cũng không phản đối.
[5] Tại phiên tòa sơ thẩm (bút lục 130), ông S trình bày: “Nếu Tòa án xem xét là đất của ông C thì tôi sẽ di dời các cây trên đất”, nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông S di dời cây trồng trên đất mà không đặt ra để giải quyết chi phí di dời cây trồng, là có căn cứ.
[6] Từ các phân tích trên, Bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C là có căn cứ. Ông Nguyễn Thanh S kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của ông, nên không có căn cứ để chấp nhận, giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.
[7] Do không được chấp nhận kháng cáo nên ông S phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[8] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng; về án phí dân sự sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
2. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh S; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2023/DS-ST ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận, như sau:
2.1. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 745742, số vào sổ cấp GCN 00345/QSDĐ/209 của Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc cấp cho ông Nguyễn Thanh S ngày 15/3/2000 đối với Thửa đất số 88, diện tích 928 m2, Tờ bản đồ Độc Lập, xã Hàm Nhơn (nay là khu phố H, thị trấn L), huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận;
2.2. Công nhận cho ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị T1 được quyền sử dụng diện tích đất (đo đạc thực tế) 452,7 m2 đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
2.3. Buộc ông Nguyễn Thanh S và bà Nguyễn Thị L1 phải tháo dỡ, di dời:
03 cây ổi, 01 cây dừa, 04 cây mãng cầu và các tài sản khác (nếu có) và trả lại cho ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị T1 diện tích đất 452,7 m2, tọa lạc tại khu phố H, thị trấn L, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
Vị trí, kích thước, hình thể, giáp giới phần diện tích nêu trên được xác định theo Mảnh chỉnh lý thửa đất tranh chấp do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Hàm Thuận Bắc lập ngày 20/7/2022 (đính kèm theo Bản án).
2.4. Ông Nguyễn Văn C, bà Lê Thị T1, ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Thị L1 có quyền và nghĩa vụ kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
3. Ông Nguyễn Thanh S phải nộp án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) và được khấu trừ tạm ứng án phí phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0020034 ngày 20/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng; về án phí dân sự sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn