TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 58/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 177/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
– Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng Th, sinh năm 1984; cư trú tại ấp K, xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau (có mặt).
– Bị đơn: Anh Châu Văn L, sinh năm 1989; cư trú tại ấp K, xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 27 tháng 6 năm 2019 của chị Nguyễn Thị Hồng Th và quá trình tố tụng tại Tòa án chị Th trình bày: Chị và anh Châu Văn L tự nguyện kết hôn vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau.
Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm, lối sống, bản thân anh L thường hay nghi kỵ, thiếu trách nhiệm với gia đình, không có sự gần gũi đối với con cụ thể trong lúc con bị bệnh thì bỏ mặc không quan tâm lo lắng. Từ đó, vợ chồng thường xuyên cự cải dẫn đến cuộc sống không hạnh phúc và tự sống riêng từ năm 2011 nên chị yêu cầu ly hôn với anh L.
Về con chung của chị và anh L có một người tên Châu Trung H, sinh ngày 31/5/2008 hiện đang ở cùng chị, sau khi ly hôn chị yêu cầu nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.
Về tài sản chị không yêu Tòa án giải quyết.
Anh Châu Văn L có đơn đề nghị vắng mặt và không có ý kiến gì khác ngoài yêu cầu của chị Th.
Đối với Châu Trung H là con chung của chị Th và anh L có nguyện vọng ở cùng chị Th.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hiển tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án được thực hiện đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Hồng Th ly hôn với anh Châu Văn L, giao con cho chị Th nuôi, tài sản không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Vụ việc theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị Hồng Th được Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. [2] Anh Châu Văn L có đơn đề nghị vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xử vắng mặt anh L. [3] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hồng Th và anh Châu Văn L được xác lập vào năm 2007, có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực tại thời điểm xác lập nên hôn nhân được xác định là hợp pháp, nay xảy ra tranh chấp Tòa án căn cứ vào những quy định về chấm dứt hôn nhân theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết. Quá trình chung sống thực tế có xảy ra mâu thuẫn, chủ yếu là có sự bất hòa nhau trong đời sống vợ chồng và không tin tưởng lẫn nhau dẫn đến cuộc sống không hạnh phúc. Hiện tại, anh chị mỗi người một nơi không ai lo lắng, chăm sóc hay giúp đỡ cho nhau trong những lúc khó khăn, thời gian kéo dài đôi bên vẫn không tìm được biện pháp hữu hiệu để xoa diệu mâu thuẫn nhằm hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Xét thấy, đã có sự vi phạm nghiêm trọng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Hồng Th được ly hôn với anh Châu Văn L là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình. [4] Về nuôi con chung: Chị Th và anh L có một người con chung có nguyện vọng ở cùng chị Th, sau khi ly hôn chị Th yêu cầu nuôi con trong khi đó anh L không có ý kiến gì. Để không làm xáo trộn môi trường sống cũng như căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, căn cứ Điều 81của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận giao chị Th nuôi con theo nguyện vọng của con là phù hợp. Phần cấp dưỡng đương sự không yêu cầu đặt ra.Anh L có quyền thăm nôm, chăm sóc và giáo dục con theo quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[5] Về chia tài sản: Các đương sự không có yêu cầu nên không giải quyết. [6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng Th là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, được khấu trừ phần tạm ứng án phí chị Th đã nộp. [7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 228, Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử vắng mặt anh Châu Văn L.
Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Hồng Th được ly hôn với anh Châu Văn L.
Về nuôi con chung: Chị Th được nuôi con tên Châu Trung H, sinh ngày 31/5/2008 hiện đang ở cùng chị. Phần cấp dưỡng đương sự không yêu cầu nên không xem xét.
Anh L có quyền thăm nôm, chăm sóc và giáo dục con không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng quyền thăm con để gây ảnh hưởng đến việc nuôi con của chị Th.
Về chia tài sản: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch chị Nguyễn Thị Hồng Th phải chịu 300.000 đồng, chị Th đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0005792 ngày 27/6/2019 được khấu trừ.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.