TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1162/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 27/8/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 281/2017/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3326/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T , sinh năm 1961
Địa chỉ: 860 đường X, phường H, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Bà Hồ Thị Kim Q, sinh năm 1962
Địa chỉ: Bridge Street, Weymouth MA 02191 USA.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 27/3/2017 và bản tự khai ngày 06/7/2017, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:
Ông và bà Hồ Thị Kim Q đăng ký kết hôn với nhau vào năm 1988 theo Giấy đăng ký kết hôn số 123 ngày 09/11/1988 của Ủy ban nhân dân Phường 1, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau ở Quận Tân Bình. Cuộc sống chung hạnh phúc bình thường được thời gian thì giữa đôi bên bất đồng quan điểm. Nguyên nhân chủ yếu là do bà Q muốn ra nước ngoài sinh sống còn ông không đồng ý đi. Năm 2001, bà Q đưa con sang Mỹ định cư. Thời gian đầu từ năm 2001 đến năm 2003 vợ chồng có liên lạc với nhau qua điện thoại, sau đó việc liên lạc thưa dần. Năm 2008, ông có trao đổi với bà Q về việc ly hôn thì bà Q đồng ý và bà cũng cho biết không về Việt nam nữa. Thời gian xa cách lâu, ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục đời sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.
Về con chung: có 01 người con tên là Nguyễn Đức Cảnh Duy, sinh ngày 20/5/1990 hiện đang ở với mẹ. Con chung đã thành niên nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: không có.
Bị đơn bà Hồ Thị Kim Q có Quốc tịch Việt Nam, cư trú ở Hoa Kỳ; Tòa án thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp, đã gửi Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự số 362/UTTPDS-TA30 ngày 23/8/2017 đến Đại sứ quán Việt Nam tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Thông báo về việc thụ lý và xét xử vụ án dân sự sơ thẩm cho bà Hồ Thị Kim Q vào cùng ngày 01/9/2017. Theo nội dung tại các văn bản nêu trên thì thời gian mở phiên tòa lần 1 vào lúc 8g00 ngày 22/5/2018, thời gian mở phiên tòa lần 2 vào lúc 8g00 ngày 22/06/2018. Đến ngày mở phiên tòa, Tòa án không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của bà Hồ Thị Kim Q và bà cũng không có mặt tại phiên tòa, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:
– Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu và thủ tục tại phiên tòa .
– Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Ông Nguyễn Văn T được ly hôn bà Hồ Thị Kim Q . Con chung: ghi nhận lời khai của ông T người con chung Nguyễn Đức Cảnh Duy, sinh ngày 20/5/1990 đã thành niên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản chung và nợ chung không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn bà Hồ Thị Kim Q cư trú tại Hoa Kỳ; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn bà Hồ Thị Kim Q vắng mặt đến lần thứ 2. Ngày 22/5/2018, Tòa án hoãn phiên tòa lần 1 và có văn bản đề nghị Đại sứ quán Việt Nam tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp đối với bà Hồ Thị Kim Q. Văn bản đã được gửi đi vào ngày 28/5/2018. Đến nay, Tòa án không nhận được thông báo về kết quả thực hiện việc tống đạt cho bà Hồ Thị Kim Q.
Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238, khoản 4 và điểm c khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:
Ông Nguyễn Văn T và bà Hồ Thị Kim Q tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 1988, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy đăng ký kết hôn số 123 ngày 09/11/1988 của Ủy ban nhân dân phường 1, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh (Bản chính giấy đăng ký kết hôn đã thất lạc). Như vậy, hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Theo lời khai của ông T thì sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường được thời gian là phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do bất đồng quan điểm, bà Q muốn ra nước ngoài sinh sống còn ông muốn sống ở Việt Nam. Vì vậy, vào năm 2001 bà Q đưa con qua Mỹ sinh sống. Trong 02 năm đầu sau khi đi, vợ chồng còn liên lạc với nhau qua điện thoại. Sau đó, việc liên lạc thưa dần và không còn liên lạc với nhau nữa. Nay thời gian xa cách đã lâu, ông xác định tình cảm đối với vợ không còn, không thể tiếp tục đời sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Xét, tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Như vậy, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không bên nào có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng mà vẫn mạnh ai nấy sống trong thời gian dài nên hôn nhân giữa đôi bên lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông T.
Về con chung: ông T khai có 01 người con tên là Nguyễn Đức Cảnh D, sinh ngày 20/5/1990. Xét, người con chung đã thành niên muốn chọn ở với cha hay mẹ tùy ý, Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung và nợ chung: ông T khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.
Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Luật phí và lệ phí;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn;
1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn T được ly hôn bà Hồ Thị Kim Q.
Giấy đăng ký kết hôn số 123 ngày 09/11/1988 của Ủy ban nhân dân Phường 01, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về con chung: người con chung Nguyễn Đức Cảnh D, sinh ngày 20/5/1990 đã thành niên.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Ông Nguyễn Văn T khai không có. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.
4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn)đồng ông Nguyễn Văn T nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng ông T đã nộp tại Biên lai thu số AA/2016/0034302 ngày 30/5/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, ông T đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn ông Nguyễn Văn T và bị đơn bà Hồ Thị Kim Q; ông Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, bà Hồ Thị Kim Q được quyền kháng cáo trong thời hạn 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.